Chương : 8
Họ đáp xuống giữa màn đêm, trên một hòn đảo nhỏ ở ngay trung tâm một cái hồ bao la.
Timoken dắt Gabar đến bên bờ biển đầy những vỏ sò lạo xạo ẩn mình dưới những gốc cây. Ở đó, họ đã quá mệt mỏi vì chuyến bay, cả hai cùng chìm vào giấc ngủ.
Khi tỉnh dậy, Timoken chạy ra bờ biển. Những vỏ sò trông có vẻ có giá trị và cậu đã nhặt một ít cho vào túi trước khi đánh bạo đi xa hơn.
Làm thế nào họ có thể biết được rằng, trong hàng trăm năm qua, bọn viridee đã dụ dỗ khách đi đường và những người đánh cá đến hòn đảo vắng vẻ này. Tại đây, họ đã bị cướp sạch tài sản và bỏ mặc cho đến chết. Khi bọn viridee trên đảo trông thấy Timoken và Gabar đang bay về phía hòn đảo, chúng đã không thể tin được mình lại may mắn như thế. Chúa Tể Degal sẽ vô cùng hài lòng về chúng, khi chúng dâng lên cho hắn tấm tơ của con nhện mặt trăng cuối cùng. Nơi đây sẽ là cái bẫy mà Timoken không thể nào thoát ra được nữa.
Timoken rời khỏi bãi biển và đi tha thẩn về phía những hàng cây. Mặt đất được che lâp bởi một tấm thảm dày những bông hoa dại và những bụi cây lá rộng. Nhưng hòn đảo này dường như không một sinh vật nào sinh sống, thậm chí Timoken không hề nghe thấy một tiếng chim nào. Timoken bắt đầu hành trình khám phá hòn đảo. Để lại Gabar vẫn còn ngủ say, cậu tìm đường xuyên qua những bụi rậm.
Một ngôi nhà hiện ra ngay sau bụi rậm, Timoken tiến lại gần hơn về phía ngôi nhà. Căn nhà xây theo lối kiến trúc hình trụ, với một mái vòm trắng, tường nhà ẩn những sợi gân nhỏ bằng vàng, lấp lánh trong ánh mặt trời. Hai cái cột ở hai bên lối vào hình vòng cung, được trang trí bằng những biểu tượng rất lạ. Timoken không biết gì về chúng.
“Trong ngôi nhà này có gì? Ai đã xây dựng nó?” Timoken đang lưỡng lự. Một linh cảm như mách bảo cậu đừng nên tiến xa hơn, nhưng trí tò mò của cậu đã lấn át. Cậu bước lên bậc tam cấp bằng cẩm thạch dẫn vào cổng chính, rồi đi vào trong.
Ngay lập tức, Timoken bị chìm trong bóng tối tràn ngập bên trong. Không một tia sáng nhỏ nhoi nào lọt vào đây, dù bên ngoài cánh cửa đang tràn ngập ánh nắng mặt trời. Timoken quay người lại. Cậu không thể nhìn thấy gì cả. Cánh cửa đã biến mất. Cậu tiến về phía trước và chạm vào bức tường đá lạnh lẽo. Cậu đi lần theo bức tường và tin chắc rằng mình sẽ tìm được cánh cửa, có một vết nứt - hay bất cứ thứ gì báo hiệu có một khe hở. Cậu vấp phải những cành cây hay đá sỏi gì đó dưới chân. Cúi người để tìm xem vật gì đang ở dưới đất, tay cậu nắm phải một vật hình trụ dài và trơn nhẵn, với hai cái bướu tròn ở hai đầu. Timoken thả nó xuống và lại tiếp tục vấp phải một cái nữa. Có rất nhiều những vật như thế ở đây: giống như củi khô, đủ kích cỡ và cứng như xương.
Khi Timoken chạm vào cái hộp sọ, cậu biết chắc rằng, những vật phát ra tiếng kêu lách cách răng rắc ở dưới chân cậu là những khúc xương người. Chắc chắn là nhiều hơn xương của một người. Hay đúng hơn là mặt đất phủ đầy xương người.
Timoken hét lên sợ hãi. Nhung chỉ có Gabar là có khả năng nghe thấy tiếng cậu ở nơi hoang vu này. Một con lạc đà có thể làm được gì chứ? Timoken cố gắng nghĩ ra một phép thuật có thể giúp mình trong lúc này. Cậu có thể bay, cậu có thể gọi giông bão, cậu có thể nói chuyện với bất cứ con vật nào trên thế giới, nhưng làm sao cậu có thể thoát khỏi một ngôi nhà kinh khủng, đầy xương người? Cậu còn không mang cả áo choàng mặt trăng để bảo vệ mình.
Nhưng cậu có chiếc nhẫn. Cậu chạm tay vào chiếc nhẫn. Một quầng sáng mờ nhạt phát ra từ ngón tay đeo nhẫn, khuôn mặt bé nhỏ của thần rừng đang nhìn cậu.
“Tôi phải làm gì bây giờ?” Timoken nài nỉ. “Ngài có thể giúp tôi chứ?”
“Sức mạnh của chúng ở nởi này rất lớn,” thần rừng buồn bã nói.
“Bọn viridee?”
“Phải.”
“Ngài nói là ngài sẽ giúp tôi mà,” Timoken gào lên. “Vậy mà ngài lại không làm được gì sao?”
“Chúng đang hút lấy sức mạnh của tôi,” giọng nói của thần rừng ngày càng nhỏ dần, gần như chỉ còn là tiếng thở trong không khí. “Chúng mạnh quá.” Ánh sáng từ chiếc nhẫn dần dần nhạt đi.
“Hãy chiến đấu với chúng, thần rừng. Tôi xin ngài đấy. Hãy mạnh mẽ lên.”
Đôi mắt của người nhắm lại, rồi đột nhiên, thần rừng chớp mắt “Gọi những con báo,” ngài thì thầm.
“Tôi không thể!” Timoken rên rỉ. “Chúng sẽ không thể nghe thấy tôi. Hơn nữa, làm sao chúng tìm ra tôi chứ?”
“Tấm tơ nhện đã tạo cho chúng sự khác biệt so với những con vật khác: phi thường, tuyệt diệu và bất tử...” Giọng nói yếu ớt của thần rừng cũng tắt lịm. Ánh sáng lờ mờ từ chiếc nhẫn cũng biến mất, cả không gian bao trùm bởi sự im lặng, nó như đè nặng lên vai Timoken, làm cậu quỳ sụp xuống. Cậu đưa tay quét qua đống xương, một cơn giận dữ bùng lên từ bên trong lồng ngực Timoken. Bọn viridee đã lừa và giết bao nhiêu người trong cái nơi kinh tởm này? Cậu không muốn trở thành một người trong số họ.
Cậu nhớ lại ngôn ngữ của loài báo trong đầu mình, rồi dùng hết sức gầm lên một tiếng thật to. Quả là một tiếng gầm khủng khiếp, đến nỗi cả người cậu run lên. Nó làm cổ họng cậu như muốn vỡ tung và xé tan màn đêm tĩnh mịch này.
Một lần, rồi một lần nữa, tiếng gầm của một con báo đang tức giận vang lên tận trần nhà như muốn phá tung bốn bức tường xung quanh. Gabar nghe thấy âm thanh đó liền đứng phắt dậy. Nó cảm thấy rất lo lắng. Timoken đã đi lâu lắm rồi. Tiếng kêu đó nghe cũng rất đặc biệt. Đó rõ ràng là tiếng gầm của một con báo, nhưng tới đây thì Gabar chắc chắn đây là tiếng của Timoken.
Con lạc đà to lớn bắt đầu nặng nề lê bước qua những hàng cây, hướng về phía phát ra tiếng kêu của loài báo. Một đám mây đen cuồn cuộn vắt ngang bầu trời, ánh mặt trời cũng tắt lịm, trả lại cho hòn đảo bóng tối kinh hoàng của nó. Khi Gabar đến trước ngôi nhà, nó đã không còn là một căn nhà xinh đẹp nữa. Nó xám đen và không có vẻ gì là chào đón người lạ. Gabar tìm đến cái cổng dẫn vào nhà, nó nghe tiếng kêu của Timoken phát ra từ đây, như tiếng của một con thú đang bị mắc bẫy. Tại sao cậu ấy không thoát ra khỏi đó được?
Gabar nghĩ, Một câu thần chú! Ngay khi ý nghĩ đó nảy ra trong đầu Gabar, những cái lá của cây cọ bên trên và cây cỏ xung quanh bắt đầu thì thầm và rì rầm và cười khúc khích và làu bàu gì đó.
“Gia đình à!” con lạc đà sợ hãi gọi. “Bọn viridee!”
Timoken nghe thấy tiếng kêu tuyệt vọng của con lạc đà, nhưng cậu không thể làm gì để giúp nó được. Cậu lại gầm lên một tiếng nữa; tiếng kêu thật dũng mãnh và đầy quyền lực khiến cho những con quái vật hung hăng đang định vồ lấy con lạc đà cũng phải ngập ngừng tronng chốc lát trước khi tiếp tục tiến đến trong cơn thèm khát.
Gabar quay một vòng nhìn những tên viridee xanh lè gân guốc đang vây lấy nó. Những lọn tóc ướt của chúng đung đưa qua lại, những cặp mắt đỏ ngầu như toé lửa, những cánh tay dài lắc lư như những sợi dây leo.
“Lạc đà!” một tên nói. “Hãy để chúng ta mang cái tránh nhiệm nặng nề ấy của ngươi đi.”
Gabar ngẩng cao đầu và rống lên. Nhưng những ngón tay như rễ cây của chúng đang hướng về phía chiếc túi đựng áo choàng mặt trăng. Gabar quay đầu, cắn vào một cánh tay khẳng khiu, nhai ngấu nghiến bằng những cái răng to bè của nó. Rồi nó đá một tên bằng chân, gầm rú lên, xoay vòng vòng, khuấy động khoảng đất bằng đôi chân điên tiết của mình.
Trong ngôi nhà xương, Timoken nghe thấy tiếng kêu của con lạc đà. Tức giận và bất lực, cậu trượt xuống sàn nhà, thu mình lấy hơi giữa đống xương tàn. Cậu nhắm mắt, gầm lên một tiếng thật to để cổ vũ cho Gabar.
Một tia sáng mỏng mảnh lóe qua mi mắt cậu. Tia sáng mạnh dần lên. Timoken mở mắt ra và thấy ngọn lửa đang cháy bên ngoài bức tường. Chạm vào bức tường, nhưng chỉ cảm thấy đá cứng, cậu lúng túng.
Ngọn lửa bắt đầu lan nhanh vòng quanh ngôi nhà, làm cho Timoken có cảm tưởng cậu đang ở giữa một đám lửa lớn. Giờ thì cậu có thể nghe được tiếng lửa cháy lách tách. “Gabar!” cậu hét to. “Chuyện gì đang diễn ra vậy?”
Trả lời cậu là tiếng gầm của loài báo. Có ba tiếng gầm. Ba con báo đã đến.
Vòng tròn lửa quanh cậu cháy bùng lên mạnh hơn. Timoken có thể cảm thấy được sức nóng của nó xuyên qua bức tường. Cậu còn có thể ngửi thấy mùi đá cháy. Bức tường bắt đầu nứt ra, những hòn đá vỡ ra, lăn xuống những bậc thang. Qua khe hở, Timoken có thể nhìn thấy cây cối bên ngoài và Gabar, đôi mắt của nó đang mở to kinh ngạc. Nhưng Timoken không thấy ba con báo đâu cả. Chúng chính là nguyên nhân làm cho ngọn lửa cháy to hơn.
Timoken đẩy và đá vào tường cho tới khi cậu tạo nên một khe nứt đủ rộng để có thể chui lách qua. Những hòn đá nóng hừng hực, nên cậu phải khéo léo len người qua giữa chúng để không bị cháy quần áo. Ngay khi cậu thoát được ra ngoài, cả tòa nhà sụp đổ sau lưng cậu. Timoken cố vượt qua đám gạch đá bay tung tóe và đám đổ vỡ, xuyên qua vòng lửa mà không có chút cảm giác nào.
Ngọn lửa bắt đầu bùng lên cao. Trước mặt cậu là ba con báo. Chúng đứng bên nhau vai kề vai: Mèo Mặt Trời, Cằm Lửa và Ngôi Sao.
“Các em đã cứu mạng ta,” Timoken cảm kích nói.
“Cuộc sống của chúng em là của cậu,” cả ba con mèo to đáp lại.
Mèo Mặt Trời nói: “Đi thôi!”
“Nơi này thật đáng sợ,” Cằm Lửa nói.
“Hãy bảo trọng,” Ngôi Sao nói.
“Nhưng các em... làm sao mà các em...?”
“Không gì có thể làm hại được chúng em,” Mèo Mặt Trời nói.
“Chúng em nhanh hơn cả gió,” Cằm Lửa nói.
“Chúng em sẽ luôn luôn ở bên cậu,” Ngôi Sao nói.
“Vậy chúng ta hãy rời khỏi đây thôi!” Cả ba cùng đồng thanh nói, giọng lộ rõ vẻ khẩn cấp.
Gabar đã quỳ xuống, sẵn sàng cho Timoken leo lên lưng.
Timoken nhìn quanh cảnh xung quanh mình, những hàng cây, những bụi cỏ xanh. Không có bóng dáng của bọn viridee. Ba con báo đã báo trước cho họ nên tránh xa nơi này. Những đám mây đen dần tan biến, nhường chỗ cho ánh nắng mặt trời, ngôi nhà xương cũng chỉ còn lại một đống tro tàn.
Timoken leo lên yên, Gabar đứng thẳng dậy, sẵn sàng cất bước.
“Ta xin lỗi, Gabar!” Timoken nói. “Nhưng...”
“Tôi biết, chúng ta phải bay tiếp,” Gabar nói. “Tôi rất vui vì điều đó.”
Timoken không nhịn được cười. Gabar bao giờ cũng làm cậu thấy dễ chịu hơn trong hầu hết những hoàn cảnh khó khăn đã xảy ra.
“Vậy thì bay thôi!” Timoken nắm lấy chiếc bờm của Gabar và bay lên, thật nhẹ nhàng.
Khi Timoken nhìn xuống, những chú báo đã biến mất, nhưng tiếng kêu của chúng với theo cậu dọc theo dòng nước “Hãy thận trọng, Nhà Vua Trẻ! Hãy sáng suốt! Hãy bảo trọng!”
Không bao lâu thì Timoken nhìn thấy một đường dài màu xanh lá cây chạy dọc theo đường chân trời cuối vùng hồ mênh mông. Lúc tới gần hơn, cậu thở phào nhẹ nhõm khi thấy đó không phải là một rặng núi, mà là những bụi cây xanh mơn mởn được cắt tia thẳng lối và những ngôi nhà mái bằng.
Họ đáp xuống một bãi biển vàng cát, nơi những con tàu đánh cá đang neo bên cây cầu tàu bằng gỗ. Hai ngư dân đang ngồi vá chiếc lưới của họ bên mép nước và một cậu bé đang đội một giỏ đựng đầy cá trên đầu, đang đi từ cầu tàu về phía những khóm cây.
Không ai để ý đến sự xuất hiện lạ kỳ của con lạc đà.
Hai người đánh cá chỉ tập trung vào chiếc lưới của họ mà không để ý gì đến những kẻ lạ mặt. Họ còn không quay đầu lại khi Timoken dắt Gabar đi vào những hàng cây.
Đây là một nơi thật yên tĩnh. Ngoại trừ khu chợ thật là náo nhiệt, Timoken đổi một nắm vỏ sò để lấy trái cây và đậu. Không ai tỏ ra bất ngờ khi thấy một cậu bé đi cùng với một con lạc đà. Có lẽ họ nghĩ cậu là đầy tớ của một ông chủ giàu có. Cậu đã quấn vạt áo choàng quanh đầu để giấu chiếc vương miện nhỏ bằng vàng.
Đây có thể sẽ là nhà của mình không? Timoken tự hỏi. Không. Có gì đó đang thôi thúc cậu. Cậu nhìn xuống chiếc nhẫn. Nó đã mất đi vẻ lấp lánh vốn có, khuôn mặt nhỏ dường như đang buồn ngủ. Timoken tự hỏi, phải chăng bọn viridee quá mạnh, sinh vật nhỏ bé này không thể đối phó được. Ông ta đã chết rồi sao?
Tối hôm đó, khi Timoken ngồi dưới một gốc thông, Gabar đang nhai đậu sau lưng cậu, Timoken với lấy chiếc túi và móc ra một viên ngọc trai. Cậu để viên ngọc chạy trong lòng bàn tay trong một phút, rồi cậu định thử nhân đôi viên ngọc lên như cách mà Zobayda đã làm. Nếu như thần rừng không còn nữa, thì câu thần chú sẽ không có hiệu lực. Timoken dùng ngón tay xoay vòng quanh viên ngọc trai và thì thầm một vài từ đơn giản bằng ngôn ngữ của vương quốc bí ẩn: “Hãy biến nó thành hai viên ngọc! Hãy biến nó thành ba, bốn viên!”
Viên ngọc trai lắc lư tới lui mấy lượt, và rồi, nó đột ngột tách ra làm hai viên. Rồi ba viên. Rồi bốn viên. Timoken cảm thấy là chính cậu - Timoken - đã nhân bốn viên ngọc trai bằng sức mạnh của mình chứ không phải nhờ sự giúp đỡ của chiếc nhẫn.
Cậu tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay mình, nắm chặt viên ngọc trai tay, đặt nó tựa lên má. “Năm, sáu, bảy, tám,” cậu thì thì thầm. “Chín, mười, mười một, mười hai.” Cậu tiếp tục đếm đến hai mươi. Cậu có thể cảm thấy rằng lòng bàn tay mình dần đầy lên, những viên ngọc nở ra trong lòng bàn tay cậu. Khi cậu mở tay ra, những viên ngọc trai ùa ra như suối.
“Mình có thể làm được,” Timoken thì thào. “Mình có thể tự làm được.”
Một tiếng thở dài yếu ớt vang lên từ chiếc nhẫn: “Cậu vẫn cần tôi sao?” Giọng nói của thần rừng như tuyệt vọng.
“Tất nhiên rồi,” Timoken cầm chiếc nhẫn lên và đeo nó lên tay mình. Tạo ra những viên ngọc khiến cậu cảm thấy manh mẽ hơn, cậu thấy như mình đang là người bảo vệ chiếc nhẫn, chứ không phải ngược lại.
Tràn trề hy vọng, cậu quyết định tiếp tục cuộc hành trình của mình dưới ánh sao đêm. Cậu đã học được cách dò tìm đường đi bằng những ngôi sao trời. Gabar cũng không phản đối, thế là họ lại tiếp tục đi về phía bắc. Cả ngôi làng đang ngủ say, ngay cả những chú chó cũng không biết được con lạc đà đã nhẹ bước xuyên qua ngôi làng, ra ngoài con đường cát dẫn đến... Ai mà biết đến đâu?
Rạng sáng hôm sau, họ đến được một ngôi làng khác và rồi ngày qua ngày, họ cứ đi mãi cho đến khi đến bờ biển nọ. Dần dà, họ đến một đất nước hoàn toàn khác. Họ đi qua những lâu đài cổ xưa và đền thờ đã đổ nát. Họ nhìn thấy kim tự tháp và những bức tượng bị chôn một nửa trong cát. Bất cứ khi nào có cơ hội, Timoken cũng dùng con dao cán ngọc trai để khắc lại cuộc hành trình của mình lên những nơi có thể. Cậu vẽ những bức tranh của mình lên hầm mộ, hang đá, nền đất của một ngôi đền bỏ hoang, thành lũy, bức tường trong vườn của tu viện. Rất nhiều lần, Charlie Bastory, cậu bé mà Timoken đã gặp trong vách hang động, cũng đến và trò chuyện với cậu khi cậu đang vẽ.
“Con đã tìm thấy người!” người nối dõi của Timoken thì thầm vào tai cậu. Timoken cười vui sướng và rồi họ nói với nhau hết chuyện này đến chuyện khác, những câu chuyện Timoken muốn kể cứ tuôn trào như suối nước. Những lúc như vậy, khuôn mặt lạc đà kiêu hãnh của Gabar sẽ nhìn họ với vẻ không tán thành.
Một ngày nọ, Timoken và Charlie đang ngồi với nhau trong một ngôi nhà kiểu La Mã đã đổ nát, Timoken nói: “Tôi đã kể cho cậu nghe câu chuyện về đời tôi trong hon một trăm năm qua, có lẽ cậu biết tương lai của tôi ra sao. Cậu có thể nói cho tôi biết khi nào tôi sẽ chết không?”
Cậu bé đang ngồi cạnh Timoken nhăn mặt: “Không,” cậu nói, “một người bạn của cháu có tấm áo choàng gần giống như cái người đang khoác.” Cậu bé chạm vào tấm áo choàng trên vai Timoken, “Nhưng nó màu nhung đỏ, không như màu áo choàng mặt trăng của cậu.”
“Cậu nói đỏ à?” Timoken cười. “Đỏ như thế nào?”
“Như màu hoàng hôn.”
Khi Charlie đi rồi, Timoken vỗ nhẹ vào cổ của con lạc đà và nói: “Đừng làm vẻ mặt khó chịu như thế, Gabar. Ta không thể cưỡng lại ý muốn nói chuyện huyên thuyên với Charlie. Ta muốn được làm bạn với những đứa trẻ bằng tuổi mình, một người giống như ta.”
Con lạc đà nói: “Tôi cũng vậy.”
Timoken cảm thấy có lỗi. Cậu biết rằng Gabar cũng rất nhớ đồng loại của mình. Nhưng cậu có thể làm gì để giúp nó đây? Nếu cậu tìm cho Gabar một người bạn, làm thế nào cậu có thể nhấc nổi hai con lạc đà khi bay? Gabar và cậu đã gắn bó với nhau từ những sự việc họ từng trải qua, cùng với thời gian và đó cũng chính là tình thương mà họ dành cho nhau.
Họ cùng nhau chậm chạp tiến vào vùng thời tiết lạnh giá. Mùa đông đã tới, đó là lần đầu tiên trong đời Timoken nhìn thấy tuyết. Cậu đã biết chúng như thế nào vì cậu đã thấy chúng ở trên đỉnh núi khi cậu bay ngang qua, nhưng được ngồi trên lưng lạc đà ngắm những bông tuyết mỏng manh nhẹ nhàng rơi xuống thì thật là tuyệt diệu.
Họ vẫn đi về phía bắc, mỗi ngày, thời tiết như mỗi lạnh hơn. Timoken dừng lại đổi lụa lấy một tấm mền len dày để phủ lên lưng Gabar và một tấm áo da cừu, một cái nón lông cho cậu. Chẳng bao lâu thì họ đi đến một vùng đất đá cằn cỗi, gió từ phương Bắc thổi về triền miên. Họ đành phải dừng lại trú đông trong một cái hang, họ chỉ đi ra ngoài những khi cần thiết để đổi ngọc trai và vỏ sò để lấy thức ăn. Những con báo có đến thăm họ một lần. Khi thấy mọi thứ đều ổn với Timoken, chúng lại biến mất vào quanh cảnh xám xịt và lạnh lẽo, với lời hứa sẽ luôn lắng nghe tiếng gọi của Timoken.
Khi mùa xuân đến, Timoken và con lạc đà lại tiếp tục lên đường. Đôi khi họ dừng lại ở rìa một ngôi làng cả năm trời, nhưng có những lúc, họ cố gắng đi thật nhanh, rồi họ bay qua vùng biến mà Gabar nghĩ sẽ không bao giờ tới bờ. Họ bay cao lên đỉnh núi, thời tiết ở đó lạnh đến mức lông của Gabar như đông lại thành những sợi đá cứng, còn chiếc mũi của Timoken thì lạnh đến mức cậu nghĩ nó như sắp bị rụng đi. Nhưng chiếc nhẫn vẫn thúc giục họ đi tiếp: “Nơi này vẫn chưa an toàn,” chiếc nhẫn thì thầm.
Năm mươi năm nữa lại trôi qua, Timoken quyết định sẽ không đi xa hơn nữa. “Chúng ta đã đi quá xa rồi,” cậu phàn nàn với chiếc nhẫn. “Nếu chúng ta cứ tiếp tục đi, chúng ta sẽ rơi xuống rìa của trái đất mất. Khi ấy thì chắc chắn bọn viridee sẽ không thể tìm thấy chúng ta.”
Đôi mắt trên gương mặt nhỏ xíu chớp mắt: “Có điều gì đó mới mẻ,” nó nói, rồi giọng nói pha chút niềm hối hận. “Chúng đã mở rộng phạm vi quyền lực của chúng.”
“Tôi không hiểu,” Timoken nói.
“Tôi nghĩ... Tôi cảm nhận... rằng một trong số đó là người.”
“Nếu đó là một con người, thì ông ấy hay bà ấy không phải viridee.”
“Nhưng cậu ta chính là viridee... còn nữa... trong hầu hết các khía cạnh thì cậu ta trông giống con người.”
“Tên viridee giống con người đó ở đâu? Tôi sẽ gặp hắn chứ?”
“Tôi có thể nói như thế nào nhi?” giọng của thần rừng trở nên tiếc nuối. “Hãy tha thứ à?”
“Tất nhiên là ta sẽ tha thứ cho người. Nhưng ta phải làm gì đây?” Timoken nắm chặt quả đấm vẻ thất vọng, “Tôi sẽ không bao giờ được cảm thấy an toàn với con người sao? Sẽ không có một người bạn là con người sao?” Cậu nắm lấy chiếc nhẫn, như thể muốn đổ lỗi cho nó. “Làm sao tôi nhận ra người đó khi tôi gặp hắn ta? Hắn ta có dấu hiệu gì đặc biệt không? Bản chất thật của hắn có lộ ra trên mặt không?”
“Câu sẽ biết thôi,” chiếc nhẫn nói.
Timoken dắt Gabar đến bên bờ biển đầy những vỏ sò lạo xạo ẩn mình dưới những gốc cây. Ở đó, họ đã quá mệt mỏi vì chuyến bay, cả hai cùng chìm vào giấc ngủ.
Khi tỉnh dậy, Timoken chạy ra bờ biển. Những vỏ sò trông có vẻ có giá trị và cậu đã nhặt một ít cho vào túi trước khi đánh bạo đi xa hơn.
Làm thế nào họ có thể biết được rằng, trong hàng trăm năm qua, bọn viridee đã dụ dỗ khách đi đường và những người đánh cá đến hòn đảo vắng vẻ này. Tại đây, họ đã bị cướp sạch tài sản và bỏ mặc cho đến chết. Khi bọn viridee trên đảo trông thấy Timoken và Gabar đang bay về phía hòn đảo, chúng đã không thể tin được mình lại may mắn như thế. Chúa Tể Degal sẽ vô cùng hài lòng về chúng, khi chúng dâng lên cho hắn tấm tơ của con nhện mặt trăng cuối cùng. Nơi đây sẽ là cái bẫy mà Timoken không thể nào thoát ra được nữa.
Timoken rời khỏi bãi biển và đi tha thẩn về phía những hàng cây. Mặt đất được che lâp bởi một tấm thảm dày những bông hoa dại và những bụi cây lá rộng. Nhưng hòn đảo này dường như không một sinh vật nào sinh sống, thậm chí Timoken không hề nghe thấy một tiếng chim nào. Timoken bắt đầu hành trình khám phá hòn đảo. Để lại Gabar vẫn còn ngủ say, cậu tìm đường xuyên qua những bụi rậm.
Một ngôi nhà hiện ra ngay sau bụi rậm, Timoken tiến lại gần hơn về phía ngôi nhà. Căn nhà xây theo lối kiến trúc hình trụ, với một mái vòm trắng, tường nhà ẩn những sợi gân nhỏ bằng vàng, lấp lánh trong ánh mặt trời. Hai cái cột ở hai bên lối vào hình vòng cung, được trang trí bằng những biểu tượng rất lạ. Timoken không biết gì về chúng.
“Trong ngôi nhà này có gì? Ai đã xây dựng nó?” Timoken đang lưỡng lự. Một linh cảm như mách bảo cậu đừng nên tiến xa hơn, nhưng trí tò mò của cậu đã lấn át. Cậu bước lên bậc tam cấp bằng cẩm thạch dẫn vào cổng chính, rồi đi vào trong.
Ngay lập tức, Timoken bị chìm trong bóng tối tràn ngập bên trong. Không một tia sáng nhỏ nhoi nào lọt vào đây, dù bên ngoài cánh cửa đang tràn ngập ánh nắng mặt trời. Timoken quay người lại. Cậu không thể nhìn thấy gì cả. Cánh cửa đã biến mất. Cậu tiến về phía trước và chạm vào bức tường đá lạnh lẽo. Cậu đi lần theo bức tường và tin chắc rằng mình sẽ tìm được cánh cửa, có một vết nứt - hay bất cứ thứ gì báo hiệu có một khe hở. Cậu vấp phải những cành cây hay đá sỏi gì đó dưới chân. Cúi người để tìm xem vật gì đang ở dưới đất, tay cậu nắm phải một vật hình trụ dài và trơn nhẵn, với hai cái bướu tròn ở hai đầu. Timoken thả nó xuống và lại tiếp tục vấp phải một cái nữa. Có rất nhiều những vật như thế ở đây: giống như củi khô, đủ kích cỡ và cứng như xương.
Khi Timoken chạm vào cái hộp sọ, cậu biết chắc rằng, những vật phát ra tiếng kêu lách cách răng rắc ở dưới chân cậu là những khúc xương người. Chắc chắn là nhiều hơn xương của một người. Hay đúng hơn là mặt đất phủ đầy xương người.
Timoken hét lên sợ hãi. Nhung chỉ có Gabar là có khả năng nghe thấy tiếng cậu ở nơi hoang vu này. Một con lạc đà có thể làm được gì chứ? Timoken cố gắng nghĩ ra một phép thuật có thể giúp mình trong lúc này. Cậu có thể bay, cậu có thể gọi giông bão, cậu có thể nói chuyện với bất cứ con vật nào trên thế giới, nhưng làm sao cậu có thể thoát khỏi một ngôi nhà kinh khủng, đầy xương người? Cậu còn không mang cả áo choàng mặt trăng để bảo vệ mình.
Nhưng cậu có chiếc nhẫn. Cậu chạm tay vào chiếc nhẫn. Một quầng sáng mờ nhạt phát ra từ ngón tay đeo nhẫn, khuôn mặt bé nhỏ của thần rừng đang nhìn cậu.
“Tôi phải làm gì bây giờ?” Timoken nài nỉ. “Ngài có thể giúp tôi chứ?”
“Sức mạnh của chúng ở nởi này rất lớn,” thần rừng buồn bã nói.
“Bọn viridee?”
“Phải.”
“Ngài nói là ngài sẽ giúp tôi mà,” Timoken gào lên. “Vậy mà ngài lại không làm được gì sao?”
“Chúng đang hút lấy sức mạnh của tôi,” giọng nói của thần rừng ngày càng nhỏ dần, gần như chỉ còn là tiếng thở trong không khí. “Chúng mạnh quá.” Ánh sáng từ chiếc nhẫn dần dần nhạt đi.
“Hãy chiến đấu với chúng, thần rừng. Tôi xin ngài đấy. Hãy mạnh mẽ lên.”
Đôi mắt của người nhắm lại, rồi đột nhiên, thần rừng chớp mắt “Gọi những con báo,” ngài thì thầm.
“Tôi không thể!” Timoken rên rỉ. “Chúng sẽ không thể nghe thấy tôi. Hơn nữa, làm sao chúng tìm ra tôi chứ?”
“Tấm tơ nhện đã tạo cho chúng sự khác biệt so với những con vật khác: phi thường, tuyệt diệu và bất tử...” Giọng nói yếu ớt của thần rừng cũng tắt lịm. Ánh sáng lờ mờ từ chiếc nhẫn cũng biến mất, cả không gian bao trùm bởi sự im lặng, nó như đè nặng lên vai Timoken, làm cậu quỳ sụp xuống. Cậu đưa tay quét qua đống xương, một cơn giận dữ bùng lên từ bên trong lồng ngực Timoken. Bọn viridee đã lừa và giết bao nhiêu người trong cái nơi kinh tởm này? Cậu không muốn trở thành một người trong số họ.
Cậu nhớ lại ngôn ngữ của loài báo trong đầu mình, rồi dùng hết sức gầm lên một tiếng thật to. Quả là một tiếng gầm khủng khiếp, đến nỗi cả người cậu run lên. Nó làm cổ họng cậu như muốn vỡ tung và xé tan màn đêm tĩnh mịch này.
Một lần, rồi một lần nữa, tiếng gầm của một con báo đang tức giận vang lên tận trần nhà như muốn phá tung bốn bức tường xung quanh. Gabar nghe thấy âm thanh đó liền đứng phắt dậy. Nó cảm thấy rất lo lắng. Timoken đã đi lâu lắm rồi. Tiếng kêu đó nghe cũng rất đặc biệt. Đó rõ ràng là tiếng gầm của một con báo, nhưng tới đây thì Gabar chắc chắn đây là tiếng của Timoken.
Con lạc đà to lớn bắt đầu nặng nề lê bước qua những hàng cây, hướng về phía phát ra tiếng kêu của loài báo. Một đám mây đen cuồn cuộn vắt ngang bầu trời, ánh mặt trời cũng tắt lịm, trả lại cho hòn đảo bóng tối kinh hoàng của nó. Khi Gabar đến trước ngôi nhà, nó đã không còn là một căn nhà xinh đẹp nữa. Nó xám đen và không có vẻ gì là chào đón người lạ. Gabar tìm đến cái cổng dẫn vào nhà, nó nghe tiếng kêu của Timoken phát ra từ đây, như tiếng của một con thú đang bị mắc bẫy. Tại sao cậu ấy không thoát ra khỏi đó được?
Gabar nghĩ, Một câu thần chú! Ngay khi ý nghĩ đó nảy ra trong đầu Gabar, những cái lá của cây cọ bên trên và cây cỏ xung quanh bắt đầu thì thầm và rì rầm và cười khúc khích và làu bàu gì đó.
“Gia đình à!” con lạc đà sợ hãi gọi. “Bọn viridee!”
Timoken nghe thấy tiếng kêu tuyệt vọng của con lạc đà, nhưng cậu không thể làm gì để giúp nó được. Cậu lại gầm lên một tiếng nữa; tiếng kêu thật dũng mãnh và đầy quyền lực khiến cho những con quái vật hung hăng đang định vồ lấy con lạc đà cũng phải ngập ngừng tronng chốc lát trước khi tiếp tục tiến đến trong cơn thèm khát.
Gabar quay một vòng nhìn những tên viridee xanh lè gân guốc đang vây lấy nó. Những lọn tóc ướt của chúng đung đưa qua lại, những cặp mắt đỏ ngầu như toé lửa, những cánh tay dài lắc lư như những sợi dây leo.
“Lạc đà!” một tên nói. “Hãy để chúng ta mang cái tránh nhiệm nặng nề ấy của ngươi đi.”
Gabar ngẩng cao đầu và rống lên. Nhưng những ngón tay như rễ cây của chúng đang hướng về phía chiếc túi đựng áo choàng mặt trăng. Gabar quay đầu, cắn vào một cánh tay khẳng khiu, nhai ngấu nghiến bằng những cái răng to bè của nó. Rồi nó đá một tên bằng chân, gầm rú lên, xoay vòng vòng, khuấy động khoảng đất bằng đôi chân điên tiết của mình.
Trong ngôi nhà xương, Timoken nghe thấy tiếng kêu của con lạc đà. Tức giận và bất lực, cậu trượt xuống sàn nhà, thu mình lấy hơi giữa đống xương tàn. Cậu nhắm mắt, gầm lên một tiếng thật to để cổ vũ cho Gabar.
Một tia sáng mỏng mảnh lóe qua mi mắt cậu. Tia sáng mạnh dần lên. Timoken mở mắt ra và thấy ngọn lửa đang cháy bên ngoài bức tường. Chạm vào bức tường, nhưng chỉ cảm thấy đá cứng, cậu lúng túng.
Ngọn lửa bắt đầu lan nhanh vòng quanh ngôi nhà, làm cho Timoken có cảm tưởng cậu đang ở giữa một đám lửa lớn. Giờ thì cậu có thể nghe được tiếng lửa cháy lách tách. “Gabar!” cậu hét to. “Chuyện gì đang diễn ra vậy?”
Trả lời cậu là tiếng gầm của loài báo. Có ba tiếng gầm. Ba con báo đã đến.
Vòng tròn lửa quanh cậu cháy bùng lên mạnh hơn. Timoken có thể cảm thấy được sức nóng của nó xuyên qua bức tường. Cậu còn có thể ngửi thấy mùi đá cháy. Bức tường bắt đầu nứt ra, những hòn đá vỡ ra, lăn xuống những bậc thang. Qua khe hở, Timoken có thể nhìn thấy cây cối bên ngoài và Gabar, đôi mắt của nó đang mở to kinh ngạc. Nhưng Timoken không thấy ba con báo đâu cả. Chúng chính là nguyên nhân làm cho ngọn lửa cháy to hơn.
Timoken đẩy và đá vào tường cho tới khi cậu tạo nên một khe nứt đủ rộng để có thể chui lách qua. Những hòn đá nóng hừng hực, nên cậu phải khéo léo len người qua giữa chúng để không bị cháy quần áo. Ngay khi cậu thoát được ra ngoài, cả tòa nhà sụp đổ sau lưng cậu. Timoken cố vượt qua đám gạch đá bay tung tóe và đám đổ vỡ, xuyên qua vòng lửa mà không có chút cảm giác nào.
Ngọn lửa bắt đầu bùng lên cao. Trước mặt cậu là ba con báo. Chúng đứng bên nhau vai kề vai: Mèo Mặt Trời, Cằm Lửa và Ngôi Sao.
“Các em đã cứu mạng ta,” Timoken cảm kích nói.
“Cuộc sống của chúng em là của cậu,” cả ba con mèo to đáp lại.
Mèo Mặt Trời nói: “Đi thôi!”
“Nơi này thật đáng sợ,” Cằm Lửa nói.
“Hãy bảo trọng,” Ngôi Sao nói.
“Nhưng các em... làm sao mà các em...?”
“Không gì có thể làm hại được chúng em,” Mèo Mặt Trời nói.
“Chúng em nhanh hơn cả gió,” Cằm Lửa nói.
“Chúng em sẽ luôn luôn ở bên cậu,” Ngôi Sao nói.
“Vậy chúng ta hãy rời khỏi đây thôi!” Cả ba cùng đồng thanh nói, giọng lộ rõ vẻ khẩn cấp.
Gabar đã quỳ xuống, sẵn sàng cho Timoken leo lên lưng.
Timoken nhìn quanh cảnh xung quanh mình, những hàng cây, những bụi cỏ xanh. Không có bóng dáng của bọn viridee. Ba con báo đã báo trước cho họ nên tránh xa nơi này. Những đám mây đen dần tan biến, nhường chỗ cho ánh nắng mặt trời, ngôi nhà xương cũng chỉ còn lại một đống tro tàn.
Timoken leo lên yên, Gabar đứng thẳng dậy, sẵn sàng cất bước.
“Ta xin lỗi, Gabar!” Timoken nói. “Nhưng...”
“Tôi biết, chúng ta phải bay tiếp,” Gabar nói. “Tôi rất vui vì điều đó.”
Timoken không nhịn được cười. Gabar bao giờ cũng làm cậu thấy dễ chịu hơn trong hầu hết những hoàn cảnh khó khăn đã xảy ra.
“Vậy thì bay thôi!” Timoken nắm lấy chiếc bờm của Gabar và bay lên, thật nhẹ nhàng.
Khi Timoken nhìn xuống, những chú báo đã biến mất, nhưng tiếng kêu của chúng với theo cậu dọc theo dòng nước “Hãy thận trọng, Nhà Vua Trẻ! Hãy sáng suốt! Hãy bảo trọng!”
Không bao lâu thì Timoken nhìn thấy một đường dài màu xanh lá cây chạy dọc theo đường chân trời cuối vùng hồ mênh mông. Lúc tới gần hơn, cậu thở phào nhẹ nhõm khi thấy đó không phải là một rặng núi, mà là những bụi cây xanh mơn mởn được cắt tia thẳng lối và những ngôi nhà mái bằng.
Họ đáp xuống một bãi biển vàng cát, nơi những con tàu đánh cá đang neo bên cây cầu tàu bằng gỗ. Hai ngư dân đang ngồi vá chiếc lưới của họ bên mép nước và một cậu bé đang đội một giỏ đựng đầy cá trên đầu, đang đi từ cầu tàu về phía những khóm cây.
Không ai để ý đến sự xuất hiện lạ kỳ của con lạc đà.
Hai người đánh cá chỉ tập trung vào chiếc lưới của họ mà không để ý gì đến những kẻ lạ mặt. Họ còn không quay đầu lại khi Timoken dắt Gabar đi vào những hàng cây.
Đây là một nơi thật yên tĩnh. Ngoại trừ khu chợ thật là náo nhiệt, Timoken đổi một nắm vỏ sò để lấy trái cây và đậu. Không ai tỏ ra bất ngờ khi thấy một cậu bé đi cùng với một con lạc đà. Có lẽ họ nghĩ cậu là đầy tớ của một ông chủ giàu có. Cậu đã quấn vạt áo choàng quanh đầu để giấu chiếc vương miện nhỏ bằng vàng.
Đây có thể sẽ là nhà của mình không? Timoken tự hỏi. Không. Có gì đó đang thôi thúc cậu. Cậu nhìn xuống chiếc nhẫn. Nó đã mất đi vẻ lấp lánh vốn có, khuôn mặt nhỏ dường như đang buồn ngủ. Timoken tự hỏi, phải chăng bọn viridee quá mạnh, sinh vật nhỏ bé này không thể đối phó được. Ông ta đã chết rồi sao?
Tối hôm đó, khi Timoken ngồi dưới một gốc thông, Gabar đang nhai đậu sau lưng cậu, Timoken với lấy chiếc túi và móc ra một viên ngọc trai. Cậu để viên ngọc chạy trong lòng bàn tay trong một phút, rồi cậu định thử nhân đôi viên ngọc lên như cách mà Zobayda đã làm. Nếu như thần rừng không còn nữa, thì câu thần chú sẽ không có hiệu lực. Timoken dùng ngón tay xoay vòng quanh viên ngọc trai và thì thầm một vài từ đơn giản bằng ngôn ngữ của vương quốc bí ẩn: “Hãy biến nó thành hai viên ngọc! Hãy biến nó thành ba, bốn viên!”
Viên ngọc trai lắc lư tới lui mấy lượt, và rồi, nó đột ngột tách ra làm hai viên. Rồi ba viên. Rồi bốn viên. Timoken cảm thấy là chính cậu - Timoken - đã nhân bốn viên ngọc trai bằng sức mạnh của mình chứ không phải nhờ sự giúp đỡ của chiếc nhẫn.
Cậu tháo chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay mình, nắm chặt viên ngọc trai tay, đặt nó tựa lên má. “Năm, sáu, bảy, tám,” cậu thì thì thầm. “Chín, mười, mười một, mười hai.” Cậu tiếp tục đếm đến hai mươi. Cậu có thể cảm thấy rằng lòng bàn tay mình dần đầy lên, những viên ngọc nở ra trong lòng bàn tay cậu. Khi cậu mở tay ra, những viên ngọc trai ùa ra như suối.
“Mình có thể làm được,” Timoken thì thào. “Mình có thể tự làm được.”
Một tiếng thở dài yếu ớt vang lên từ chiếc nhẫn: “Cậu vẫn cần tôi sao?” Giọng nói của thần rừng như tuyệt vọng.
“Tất nhiên rồi,” Timoken cầm chiếc nhẫn lên và đeo nó lên tay mình. Tạo ra những viên ngọc khiến cậu cảm thấy manh mẽ hơn, cậu thấy như mình đang là người bảo vệ chiếc nhẫn, chứ không phải ngược lại.
Tràn trề hy vọng, cậu quyết định tiếp tục cuộc hành trình của mình dưới ánh sao đêm. Cậu đã học được cách dò tìm đường đi bằng những ngôi sao trời. Gabar cũng không phản đối, thế là họ lại tiếp tục đi về phía bắc. Cả ngôi làng đang ngủ say, ngay cả những chú chó cũng không biết được con lạc đà đã nhẹ bước xuyên qua ngôi làng, ra ngoài con đường cát dẫn đến... Ai mà biết đến đâu?
Rạng sáng hôm sau, họ đến được một ngôi làng khác và rồi ngày qua ngày, họ cứ đi mãi cho đến khi đến bờ biển nọ. Dần dà, họ đến một đất nước hoàn toàn khác. Họ đi qua những lâu đài cổ xưa và đền thờ đã đổ nát. Họ nhìn thấy kim tự tháp và những bức tượng bị chôn một nửa trong cát. Bất cứ khi nào có cơ hội, Timoken cũng dùng con dao cán ngọc trai để khắc lại cuộc hành trình của mình lên những nơi có thể. Cậu vẽ những bức tranh của mình lên hầm mộ, hang đá, nền đất của một ngôi đền bỏ hoang, thành lũy, bức tường trong vườn của tu viện. Rất nhiều lần, Charlie Bastory, cậu bé mà Timoken đã gặp trong vách hang động, cũng đến và trò chuyện với cậu khi cậu đang vẽ.
“Con đã tìm thấy người!” người nối dõi của Timoken thì thầm vào tai cậu. Timoken cười vui sướng và rồi họ nói với nhau hết chuyện này đến chuyện khác, những câu chuyện Timoken muốn kể cứ tuôn trào như suối nước. Những lúc như vậy, khuôn mặt lạc đà kiêu hãnh của Gabar sẽ nhìn họ với vẻ không tán thành.
Một ngày nọ, Timoken và Charlie đang ngồi với nhau trong một ngôi nhà kiểu La Mã đã đổ nát, Timoken nói: “Tôi đã kể cho cậu nghe câu chuyện về đời tôi trong hon một trăm năm qua, có lẽ cậu biết tương lai của tôi ra sao. Cậu có thể nói cho tôi biết khi nào tôi sẽ chết không?”
Cậu bé đang ngồi cạnh Timoken nhăn mặt: “Không,” cậu nói, “một người bạn của cháu có tấm áo choàng gần giống như cái người đang khoác.” Cậu bé chạm vào tấm áo choàng trên vai Timoken, “Nhưng nó màu nhung đỏ, không như màu áo choàng mặt trăng của cậu.”
“Cậu nói đỏ à?” Timoken cười. “Đỏ như thế nào?”
“Như màu hoàng hôn.”
Khi Charlie đi rồi, Timoken vỗ nhẹ vào cổ của con lạc đà và nói: “Đừng làm vẻ mặt khó chịu như thế, Gabar. Ta không thể cưỡng lại ý muốn nói chuyện huyên thuyên với Charlie. Ta muốn được làm bạn với những đứa trẻ bằng tuổi mình, một người giống như ta.”
Con lạc đà nói: “Tôi cũng vậy.”
Timoken cảm thấy có lỗi. Cậu biết rằng Gabar cũng rất nhớ đồng loại của mình. Nhưng cậu có thể làm gì để giúp nó đây? Nếu cậu tìm cho Gabar một người bạn, làm thế nào cậu có thể nhấc nổi hai con lạc đà khi bay? Gabar và cậu đã gắn bó với nhau từ những sự việc họ từng trải qua, cùng với thời gian và đó cũng chính là tình thương mà họ dành cho nhau.
Họ cùng nhau chậm chạp tiến vào vùng thời tiết lạnh giá. Mùa đông đã tới, đó là lần đầu tiên trong đời Timoken nhìn thấy tuyết. Cậu đã biết chúng như thế nào vì cậu đã thấy chúng ở trên đỉnh núi khi cậu bay ngang qua, nhưng được ngồi trên lưng lạc đà ngắm những bông tuyết mỏng manh nhẹ nhàng rơi xuống thì thật là tuyệt diệu.
Họ vẫn đi về phía bắc, mỗi ngày, thời tiết như mỗi lạnh hơn. Timoken dừng lại đổi lụa lấy một tấm mền len dày để phủ lên lưng Gabar và một tấm áo da cừu, một cái nón lông cho cậu. Chẳng bao lâu thì họ đi đến một vùng đất đá cằn cỗi, gió từ phương Bắc thổi về triền miên. Họ đành phải dừng lại trú đông trong một cái hang, họ chỉ đi ra ngoài những khi cần thiết để đổi ngọc trai và vỏ sò để lấy thức ăn. Những con báo có đến thăm họ một lần. Khi thấy mọi thứ đều ổn với Timoken, chúng lại biến mất vào quanh cảnh xám xịt và lạnh lẽo, với lời hứa sẽ luôn lắng nghe tiếng gọi của Timoken.
Khi mùa xuân đến, Timoken và con lạc đà lại tiếp tục lên đường. Đôi khi họ dừng lại ở rìa một ngôi làng cả năm trời, nhưng có những lúc, họ cố gắng đi thật nhanh, rồi họ bay qua vùng biến mà Gabar nghĩ sẽ không bao giờ tới bờ. Họ bay cao lên đỉnh núi, thời tiết ở đó lạnh đến mức lông của Gabar như đông lại thành những sợi đá cứng, còn chiếc mũi của Timoken thì lạnh đến mức cậu nghĩ nó như sắp bị rụng đi. Nhưng chiếc nhẫn vẫn thúc giục họ đi tiếp: “Nơi này vẫn chưa an toàn,” chiếc nhẫn thì thầm.
Năm mươi năm nữa lại trôi qua, Timoken quyết định sẽ không đi xa hơn nữa. “Chúng ta đã đi quá xa rồi,” cậu phàn nàn với chiếc nhẫn. “Nếu chúng ta cứ tiếp tục đi, chúng ta sẽ rơi xuống rìa của trái đất mất. Khi ấy thì chắc chắn bọn viridee sẽ không thể tìm thấy chúng ta.”
Đôi mắt trên gương mặt nhỏ xíu chớp mắt: “Có điều gì đó mới mẻ,” nó nói, rồi giọng nói pha chút niềm hối hận. “Chúng đã mở rộng phạm vi quyền lực của chúng.”
“Tôi không hiểu,” Timoken nói.
“Tôi nghĩ... Tôi cảm nhận... rằng một trong số đó là người.”
“Nếu đó là một con người, thì ông ấy hay bà ấy không phải viridee.”
“Nhưng cậu ta chính là viridee... còn nữa... trong hầu hết các khía cạnh thì cậu ta trông giống con người.”
“Tên viridee giống con người đó ở đâu? Tôi sẽ gặp hắn chứ?”
“Tôi có thể nói như thế nào nhi?” giọng của thần rừng trở nên tiếc nuối. “Hãy tha thứ à?”
“Tất nhiên là ta sẽ tha thứ cho người. Nhưng ta phải làm gì đây?” Timoken nắm chặt quả đấm vẻ thất vọng, “Tôi sẽ không bao giờ được cảm thấy an toàn với con người sao? Sẽ không có một người bạn là con người sao?” Cậu nắm lấy chiếc nhẫn, như thể muốn đổ lỗi cho nó. “Làm sao tôi nhận ra người đó khi tôi gặp hắn ta? Hắn ta có dấu hiệu gì đặc biệt không? Bản chất thật của hắn có lộ ra trên mặt không?”
“Câu sẽ biết thôi,” chiếc nhẫn nói.