Chương : 7
Hắn nghe thấy tiếng xe không thể nhầm lẫn đang tiến lại gần mình. Johnny không buồn nhìn hay giơ ngón tay lên xin đi nhờ. Ai ở Tylerville này có thể cho hắn đi nhờ cơ chứ?
Không ai cả. Hắn là Johnny Harris, kẻ sát nhân. Người ta tránh hắn còn hơn tránh hủi.
Chó chết, hắn còn không thể ăn cho ra hồn nữa. Nhớ lại sự nhục nhã của mình khi ăn bữa tối, hắn nghiến răng lại. Hắn luôn luôn ăn với mục đích tống thức ăn xuống họng trước khi kẻ khác chiếm mất. Cung cách hay giấy ăn hay tất tần tật những thứ khác chưa bao giờ là quan trọng. Nhưng chúng lại quan trọng với cô ta. Vậy là, chó thật, hắn sẽ phải học những trò đó. Hắn đau đớn vì bị Rachel coi thường. Hắn tức tối vì cô đã đưa tiền cho hắn. Trả lương trước, cô ta đã nói thế. Nhưng hắn gọi đó là bố thí, và cứ nghĩ đến việc mình trở thành một kẻ ăn xin, hắn lại điên tiết.
Một chiếc xe tải màu đỏ trông còn khá mới nhẹ lướt qua, màu sơn sáng bóng của nó ánh lên trong trời chiều tối sẫm. Johnny nhìn theo nó rất lâu, vẻ ghen tị. Trong khoang xe có một người đàn ông, một người phụ nữ, một bé trai và một bé gái. Hắn luôn mơ được có một gia đình như thế. Chó thật, trong những năm ở tù, hắn đã mơ tưởng đủ thứ kiểu như thế. Mơ tưởng giúp đầu óc hắn giữ được tỉnh táo.
Nhưng vào lúc này hắn đang ở đây, đó là hiện tại. Hắn đang lê bước bên lề con đường nhựa gập ghềnh dẫn đến khu nghèo nhất của hạt. Những ngôi nhà trong nông trại xiêu vẹo với những mảnh sân đầy đồ tạp nham, rải rác quanh đó là những mái lán có sân còn lắm đồ tạp nham hơn. Những người phụ nữ béo ú trong những bộ váy mặc ở nhà ngồi trên bậc hiên xiêu vẹo, đầu gối xòe sang hai bên, nhìn hắn chằm chằm. Những người đàn ông gầy nhẳng mặc những chiếc áo ba lỗ đang gãi nách cũng nhìn hắn khi hắn đi qua.
Những con chó ghẻ lở gầy trơ xương không biết của nhà nào lao về phía hắn sủa đữ dội.
Chào mừng về nhà.
Thật tồi tệ, hắn là một phần của nơi này, và nó là một phần của hắn. Trước đây hắn từng là một trong số những đứa trẻ đang chơi đùa như thế kia, cũng nhếch nhác và bẩn thỉu như chúng. Mẹ hắn cũng béo và luộm thuộm như những người phụ nữ đang làm hắn sợ co rúm người lại kia. Bố hắn là một gã con hoang ích kỷ chỉ biết đánh đập và chửi bới, và ông ta chỉ mặc độc một cái áo lót khi ở nhà. Từ những lỗ thủng và vết bẩn luôn luôn bám trên đó thì chắc là ông ta chỉ có một cái duy nhất mà thôi.
Đó là những người quanh hắn. Kinh nghiệm sống của họ cũng là của hắn. Dòng máu tồi tệ của họ thấm vào gen hắn.
Có lần, hắn đã muốn trốn đi.
Có lần, hắn đã mong muốn rất nhiều điều.
Đó là một ngôi nhà gỗ cấp bốn, chỗ nào cũng xiêu vẹo và rách nát, thậm chí còn tệ hơn cả những ngôi nhà tệ nhất mà hắn đi qua, trên nóc có một cái chuông. Một con đường rải sỏi dẫn đến đó. Hai chiếc xe tải han gỉ đậu ở lối đi, một chiếc đã mất lốp, nằm trên những khối xi măng. Gà qué bới tung tóe trong sân. Qua cửa trước để ngỏ, hắn thấy thấp thoáng ánh sáng từ tivi.
Có ai đó ở nhà. Johnny không biết nên buồn hay vui nữa.
Hắn bước vào lối đi, lên bậc hiên, rồi nhìn qua cửa kính với vô số những lỗ và mảnh vỡ nhỏ.
Một người đàn ông đang nằm xem tivi trên một chiếc ghế dài lún xuống. Đó là một ông già, tóc hoa râm, gầy rộc, mặc một chiếc áo ba lỗ cáu bẩn đang nốc một chai bia rẻ tiền.
Cảnh tượng đó làm cổ họng Johnny thắt lại.
Nhà. Dù tốt xấu thế nào, hắn cũng đã về nhà.
Hắn mở cửa và bước vào.
Willie Harris liếc lên nhìn hắn, có vẻ như hơi giật mình trước sự đường đột. Sau đó mắt ông ta nheo lại vì đã nhận ra vị khách của mình là ai.
“Mày,” giọng ông ta đầy vẻ khinh miệt. “Tao biết không sớm thì muộn mày cũng sẽ về, y như cái đồng xu đen đủi chó chết vậy. Biến ra chỗ khác! Mày đang che tivi đấy.”
“Chào bố,” Johnny nhẹ nhàng nói.
“Tao bảo cút ra chỗ khác!”
Johnny tránh ra. Không phải vì hắn sợ bố hay những trận đòn của ông ta mà vì hắn muốn xem xem phần còn lại của ngôi nhà có gì thay đổi không. Hắn đi vào căn bếp nhỏ với những chiếc bàn tráng men trắng và bàn để chơi bài mà họ vẫn ngồi đó để ăn - khi mà họ có đồ ăn. Nếu không phải là chiếc bàn đó - có thứ gì mỏng manh mà lại tồn tại được lâu đến thế? - thì cái bàn bây giờ với cái bàn ngày xưa cũng là một cặp sinh đôi, vì nó có một mảnh gỗ bị khuyết ở chính giữa mặt bàn. Bát chén bẩn chồng đống bên cạnh bồn, như thường lệ, có điều bây giờ chỉ còn một vài cái. Những tấm rèm hoa màu hồng vẫn thế, rũ rượi và bẩn thỉu hơn bao giờ hết, treo trên cái giá màu vàng đã võng xuống bên trên bồn rửa.
Có hai phòng ngủ bé tí và một phòng tắm cũng bé nốt bên ngoài hành lang, cũng y như trước đây. Johnny liếc nhìn vào mỗi phòng, băn khoăn không biết tấm đệm đôi trên sàn phòng ngủ bé hơn có phải là chiếc ngày xưa mà hắn, Buck và Grady thường ngủ không. Sue Ann, cô con gái duy nhất trong nhà, từng ngủ trên chiếc ghế dài ngoài phòng khách. Bố mẹ hắn ngủ trên giường trong phòng ngủ bên cạnh, cho đến khi mẹ hắn bỏ đi Chicago với một gã khác. Từ đó, bố hắn ngủ ở đấy với bất kỳ mụ đàn bà dâm đãng nào mà ông ta vơ được. Đôi khi con trai của ông ta - thường là Buck – cũng ngủ với mụ ta luôn.
Nhà.
Hắn quay trở lại phòng khách và tắt tivi.
“Mẹ nhà mày!” Bố hắn nói, mặt méo xẹo vì tức giận. Ông ta đặt chai bia xuống sàn và ngồi dậy.
“Dạo này bố thế nào?” Johnny ngồi xuống đầu bên kia của chiếc ghế dài sau khi nhấc hai chân trần của Willie lên và nhẹ nhàng nắm lấy tay để ngăn ông ta ngồi dậy bật lại tivi.
Mùi bia trộn với mùi của người già xộc vào mũi hắn.
“Đồ chó, bỏ cái tay khốn kiếp của mày ra ngay!” Willie cố gắng giằng để giật tay ra nhưng không được. Johnny mỉm cười với bố và siết chặt nắm tay hơn. Không đau lắm, nhưng đủ mạnh để cảnh cáo. Mọi thứ đã thay đổi, và hắn sẽ không để bị thụi vào bụng hay mồm bất cứ khi nào bố hắn nổi cơn điên nữa.
“Bây giờ bố ở đây một mình à?”
“Liên quan chó gì đến mày? Mày có ở đây đâu mà lo!”
Suốt mười năm không gặp, Willie không hề viết thư, gọi điện hay thăm hỏi gì con mình. Điều đó đã làm mềm đi ký ức của Johnny về ông ta. Thậm chí hắn còn hy vọng là ông ta sẽ vui mừng khi gặp lại mình.
“Con không muốn chuyển về đây ở. Con có một căn hộ trong thị trấn. Con chỉ đến để thăm bố thôi.”
“Tao khỏe hơn rất nhiều trước khi mày vác mặt về đấy.”
Chẳng có gì thay đổi. Chó thật, có thứ gì thay đổi ở cái thị trấn này không thế?
“Dạo này bố có nghe tin gì của Buck hay Ann không?”
Willie khịt mũi. “Sao, mày nghĩ đây là nhà Walton à? Không, tao chẳng nghe tin gì của chúng nó hết. Cũng chẳng thèm quan tâm. Giống như tao chẳng thèm bận tâm xem mày sống chết thế nào.”
Câu nói ấy thật đau đớn. Đáng lẽ ra mọi chuyện không nên như vậy, nhưng sự thật là thế.
Johnny đã định đứng lên, đi ra cửa, và không bao giờ quay lại. Hắn sẽ không bao giờ gặp lại lão già đó nữa.
Nhưng hắn không thể làm thế. Một điều hắn học được trong tù là giá trị của mọi thứ, của mọi người. Của những mối quan hệ. Hầu hết mọi người có chúng mà không cần phải cố gắng gì. Hắn thì chỉ ước ao có được một vài mối quan hệ trong đời.
“Nghe này, bố,” hắn nhẹ nhàng nói. “Bố ghét con và con ghét bố, đúng không? Nhưng không nhất thiết phải tiếp tục như thế mãi. Chúng ta có thể thay đổi mà. Có vô khối người trên thế giới không có người thân. Bố có muốn chết cô độc, không có ai thèm nhỏ nước mắt khóc thương bố trong đám tang không? Quỷ tha ma bắt, con thì không! Chúng ta là gia đình, bố ạ. Máu mủ ruột rà của nhau. Bố không thấy thế à?”
Ông bố nhìn hắn chằm chằm một phút, sau đó thò tay lấy chai bia rồi tu một hơi dài. Nhìn ông ta, Johnny cảm thấy hy vọng cháy bỏng trong lồng ngực. Có thể, biết đâu đấy, bố con họ sẽ làm lại từ đầu.
Willie đặt chai bia xuống và lấy tay lau miệng.
“Chó má, nghe như kiểu nhà tù đã biến mày thành một thằng ẻo lả chó chết vậy. Chắc mấy thằng mọi trong đó đã nặn mày thành một con mụ mau nước mắt rồi. Tao không có thời gian cho mày. Cút ra khỏi nhà tao ngay!”
Trong một thoáng, Johnny phải cố lắm mới cưỡng lại được mong muốn sục sôi là thụi một quả đấm vào bản mặt đểu cáng của lão bố. Nhưng rồi kiềm chế được bản thân, hắn thả cánh tay gầy nhẳng mà mình đang nắm ra rồi đứng lên.
“Tôi mong ông chết rữa dưới địa ngục, lão già ạ,” hắn lạnh lùng nói, rồi xoay người bước ra.
Tiếng cửa kính đóng sầm là câu trả lời duy nhất mà hắn nhận được.
Hắn đi men theo chái nhà qua những chiếc xe tải chở hàng, lên chỗ đường cho xe ô tô và đến nơi trước đây là nhà để xe. Nó vẫn ở đó, hơi nghiêng sang một bên, chẳng khác gì ngày trước. Nhìn con gà mái đậu trên một ô cửa sổ không lắp kính và âm thanh phát ra từ bên trong, hắn biết bây giờ nó được trưng dụng làm chuồng gà rồi.
Johnny cúi đầu xuống dưới cánh cửa thấp và bước vào trong.
Nó vẫn ở đó. Hắn đã không dám hy vọng, nhưng nó vẫn ở đó. Phân gà phủ đầy bên trên, lốp xe đã mục đến tận cùng, và trên ghế ngồi bằng nhựa vinyl có một lỗ thủng làm cho xốp đệm bên trong thò cả ra ngoài. Nhưng nó vẫn dựa cạnh tường nơi trước đây hắn đã để nó ở đó: chiếc xe máy của hắn.
Lạy Chúa, nó đã từng là niềm tự hào của hắn! Một chiếc Yamaha 750, màu đỏ anh đào ánh bạc được mua bằng tiền do chính hắn kiếm được từ những công việc vặt quanh thị trấn, và hắn đã yêu nó như yêu một cô gái đẹp. Khi họ đến bắt hắn, hắn đã cất nó trong nhà xe mà không biết rằng gần mười một năm sau mình mới quay về. Trông nó không có vẻ gì là được ai sờ đến trừ những con gà trong suốt thời gian đó.
Xét về tính năng sử dụng thì nó vẫn còn mới chán. Thay lốp mới, có lẽ là lên dây phanh nữa, rồi nó sẽ chạy ngon y như trước. Hắn sẽ không phải phụ thuộc vào đôi chân hay Rachel Grant để đi đâu đó nữa. Hắn đã có những bánh xe này rồi.
Có thứ gì đó truyền tự tin cho hắn khi có những bánh xe. Hắn đã cảm thấy mình ít đàn ông hơn hẳn khi không có chúng.
Có tiếng gầm gừ trầm đục ở đâu đó đằng sau làm John¬ny phải ngoái lại nhìn. Một con chó đứng trước cửa ra vào, to lớn, chân cứng đờ, lông dựng đứng lên, răng nhe ra. Âm thanh phát ra từ trong cổ họng nó đầy vẻ đe dọa.
Di chuyển thật chậm, Johnny quay lại đối diện với nó. Bên ngoài trời đã tối, và trong nhà xe còn tối hơn. Ánh trăng bàng bạc rọi trên người con vật. Một con chó xấu xí y như những con khác, nhưng có vẻ to xác hơn. Không được cho ăn đầy đủ, được nuôi theo kiểu bần tiện và có lẽ là rất nguy hiểm.
Trước đây gia đình họ luôn luôn có một con chó như thế. To lớn, xấu xí và đầy thù hằn, chắc chắn rồi. Willie đá nó, chòng ghẹo nó, xích nó và bỏ đói nó để biến nó thành đồ hèn hạ. Hèn hạ y như bản thân lão già đó vậy.
Có điều là con chó này không bị xích.
Tiếng gầm gừ trầm hơn, căng thẳng hơn. Đầu nó hạ thấp xuống đầy đe dọa. Johnny thấy các cơ của mình căng lên chờ đợi một cuộc tấn công. Liếc nhìn quanh, hắn tìm thứ gì đó, một khúc gỗ hay đại loại vậy, để đánh con vật khi nó nhảy lên.
Nhưng nó không nhảy. Thay vào đó, sau một tiếng gầm khủng khiếp, nó ngẩng đầu lên, hình như là đang đánh hơi gì đó. Một con gà vỗ cánh và kêu quang quác phía bên phải, nhưng con chó chẳng thèm hướng tai về phía đó. Hình như nó đang nhìn chăm chú vào Johnny.
Giật mình trước thái độ của nó, vừa tò mò vừa sợ, Johnny nhìn lại nó chằm chằm. Khi mắt hắn quét qua màu lông nâu vàng, nhận ra những đặc điểm của cái đầu và đôi tai cũng như độ dày và chiều dài của cái đuôi, hắn chợt nghĩ đến một khả năng lạ thường.
Con chó khẽ ư ử.
“Wolf?” Không thể nào. Hồi hắn bị bắt, con chó mới bốn tuổi. Giờ thì nó... mười lăm tuổi rồi. Một độ tuổi cực kỳ hiếm với một con chó lai bị ngược đãi thường xuyên đến thế.
“Wolf, là mày phải không?” Hồi đó hắn đã rất yêu con chó này, nghe mới ngu ngốc làm sao. Nó là con của một con chó đi lạc sống trong chuồng gia súc mục nát bỏ hoang ở cánh đồng gần đó. Giống như đám anh em và lũ bạn của hắn, Johnny đã ném đá vào con chó cái và đàn con của nó, nhưng đến đêm hắn lẻn ra, mang theo một túi quần đầy mảnh vụn thức ăn. Con chó cái không hề mất cảnh giác với hắn, nhưng những con cún lại không e dè, đặc biệt là con to nhất, nó quấn lấy hắn như chú vịt con quấn mẹ. Một ngày kia, khi đàn chó con được khoảng bảy tuần tuổi, hắn thấy chó mẹ nằm chết bên đường. Không biết phải làm gì khác với chúng, hắn đưa lũ chó con về nhà. Hắn phải biết từ trước mới phải. Bố hắn ngay lập tức đã quẳng bốn con lên thùng sau xe tải và chở chúng đi vứt ở chỗ nào chỉ có Chúa mới biết. Con thứ năm, là Wolf, được cho ở lại vì nó to và vì Willie nghĩ rằng nó có thể trở thành một con chó giữ nhà tốt. Mặc cho Johnny phản đối, Willie vẫn ngay lập tức xích con chó lại và bắt đầu khiến nó trở nên hèn hạ. Dù Johnny đã cố bảo vệ con chó, nhưng thủ đoạn của bố hắn vẫn thành công, đến mức mà Johnny là người duy nhất trên thế giới này còn thấy con chó ấy là hữu ích.
Ở trong tù, khi hắn nằm thức cả đêm nhìn chằm chằm lên chiếc giường tầng phía trên đầu mình, Johnny đã nghĩ rằng hắn nhớ con Wolf nhất.
Đó không phải là điều chó chết đáng buồn trong cuộc đời hắn ư?
Con chó lại ư ử lần nữa. Biết là mình đang rất nực cười, rằng mình có thể mất đi cả bàn tay nếu con chó tấn công, Johnny vẫn bước về phía trước, chìa các ngón tay ra để con chó đánh hơi.
“Wolf đúng không?”
Thật khó tin, con vật khổng lồ đó hạ người xuống và rón rén tiến về phía trước, cư xử như thể nó muốn tin nhưng vẫn sợ bị lừa. Johnny khuỵu hai đầu gối xuống để chào đón nó, tay đưa về phía trước, dò dẫm trong bóng tối, vuốt ve và xoa người con chó trong khi nó rên ư ử, liếm và dụi đầu vào hắn.
“A, Wolf,” hắn nói, cuối cùng cũng chấp nhận sự thật, rằng thứ duy nhất mà hắn từng yêu đã chào đón hắn. Sau đó, khi cái đầu to lớn dụi vào lòng hắn, hắn vòng tay quanh cái cổ dày của con chó và vùi mặt vào người nó.
Lần đầu tiên sau mười một năm, hắn khóc.
Không ai cả. Hắn là Johnny Harris, kẻ sát nhân. Người ta tránh hắn còn hơn tránh hủi.
Chó chết, hắn còn không thể ăn cho ra hồn nữa. Nhớ lại sự nhục nhã của mình khi ăn bữa tối, hắn nghiến răng lại. Hắn luôn luôn ăn với mục đích tống thức ăn xuống họng trước khi kẻ khác chiếm mất. Cung cách hay giấy ăn hay tất tần tật những thứ khác chưa bao giờ là quan trọng. Nhưng chúng lại quan trọng với cô ta. Vậy là, chó thật, hắn sẽ phải học những trò đó. Hắn đau đớn vì bị Rachel coi thường. Hắn tức tối vì cô đã đưa tiền cho hắn. Trả lương trước, cô ta đã nói thế. Nhưng hắn gọi đó là bố thí, và cứ nghĩ đến việc mình trở thành một kẻ ăn xin, hắn lại điên tiết.
Một chiếc xe tải màu đỏ trông còn khá mới nhẹ lướt qua, màu sơn sáng bóng của nó ánh lên trong trời chiều tối sẫm. Johnny nhìn theo nó rất lâu, vẻ ghen tị. Trong khoang xe có một người đàn ông, một người phụ nữ, một bé trai và một bé gái. Hắn luôn mơ được có một gia đình như thế. Chó thật, trong những năm ở tù, hắn đã mơ tưởng đủ thứ kiểu như thế. Mơ tưởng giúp đầu óc hắn giữ được tỉnh táo.
Nhưng vào lúc này hắn đang ở đây, đó là hiện tại. Hắn đang lê bước bên lề con đường nhựa gập ghềnh dẫn đến khu nghèo nhất của hạt. Những ngôi nhà trong nông trại xiêu vẹo với những mảnh sân đầy đồ tạp nham, rải rác quanh đó là những mái lán có sân còn lắm đồ tạp nham hơn. Những người phụ nữ béo ú trong những bộ váy mặc ở nhà ngồi trên bậc hiên xiêu vẹo, đầu gối xòe sang hai bên, nhìn hắn chằm chằm. Những người đàn ông gầy nhẳng mặc những chiếc áo ba lỗ đang gãi nách cũng nhìn hắn khi hắn đi qua.
Những con chó ghẻ lở gầy trơ xương không biết của nhà nào lao về phía hắn sủa đữ dội.
Chào mừng về nhà.
Thật tồi tệ, hắn là một phần của nơi này, và nó là một phần của hắn. Trước đây hắn từng là một trong số những đứa trẻ đang chơi đùa như thế kia, cũng nhếch nhác và bẩn thỉu như chúng. Mẹ hắn cũng béo và luộm thuộm như những người phụ nữ đang làm hắn sợ co rúm người lại kia. Bố hắn là một gã con hoang ích kỷ chỉ biết đánh đập và chửi bới, và ông ta chỉ mặc độc một cái áo lót khi ở nhà. Từ những lỗ thủng và vết bẩn luôn luôn bám trên đó thì chắc là ông ta chỉ có một cái duy nhất mà thôi.
Đó là những người quanh hắn. Kinh nghiệm sống của họ cũng là của hắn. Dòng máu tồi tệ của họ thấm vào gen hắn.
Có lần, hắn đã muốn trốn đi.
Có lần, hắn đã mong muốn rất nhiều điều.
Đó là một ngôi nhà gỗ cấp bốn, chỗ nào cũng xiêu vẹo và rách nát, thậm chí còn tệ hơn cả những ngôi nhà tệ nhất mà hắn đi qua, trên nóc có một cái chuông. Một con đường rải sỏi dẫn đến đó. Hai chiếc xe tải han gỉ đậu ở lối đi, một chiếc đã mất lốp, nằm trên những khối xi măng. Gà qué bới tung tóe trong sân. Qua cửa trước để ngỏ, hắn thấy thấp thoáng ánh sáng từ tivi.
Có ai đó ở nhà. Johnny không biết nên buồn hay vui nữa.
Hắn bước vào lối đi, lên bậc hiên, rồi nhìn qua cửa kính với vô số những lỗ và mảnh vỡ nhỏ.
Một người đàn ông đang nằm xem tivi trên một chiếc ghế dài lún xuống. Đó là một ông già, tóc hoa râm, gầy rộc, mặc một chiếc áo ba lỗ cáu bẩn đang nốc một chai bia rẻ tiền.
Cảnh tượng đó làm cổ họng Johnny thắt lại.
Nhà. Dù tốt xấu thế nào, hắn cũng đã về nhà.
Hắn mở cửa và bước vào.
Willie Harris liếc lên nhìn hắn, có vẻ như hơi giật mình trước sự đường đột. Sau đó mắt ông ta nheo lại vì đã nhận ra vị khách của mình là ai.
“Mày,” giọng ông ta đầy vẻ khinh miệt. “Tao biết không sớm thì muộn mày cũng sẽ về, y như cái đồng xu đen đủi chó chết vậy. Biến ra chỗ khác! Mày đang che tivi đấy.”
“Chào bố,” Johnny nhẹ nhàng nói.
“Tao bảo cút ra chỗ khác!”
Johnny tránh ra. Không phải vì hắn sợ bố hay những trận đòn của ông ta mà vì hắn muốn xem xem phần còn lại của ngôi nhà có gì thay đổi không. Hắn đi vào căn bếp nhỏ với những chiếc bàn tráng men trắng và bàn để chơi bài mà họ vẫn ngồi đó để ăn - khi mà họ có đồ ăn. Nếu không phải là chiếc bàn đó - có thứ gì mỏng manh mà lại tồn tại được lâu đến thế? - thì cái bàn bây giờ với cái bàn ngày xưa cũng là một cặp sinh đôi, vì nó có một mảnh gỗ bị khuyết ở chính giữa mặt bàn. Bát chén bẩn chồng đống bên cạnh bồn, như thường lệ, có điều bây giờ chỉ còn một vài cái. Những tấm rèm hoa màu hồng vẫn thế, rũ rượi và bẩn thỉu hơn bao giờ hết, treo trên cái giá màu vàng đã võng xuống bên trên bồn rửa.
Có hai phòng ngủ bé tí và một phòng tắm cũng bé nốt bên ngoài hành lang, cũng y như trước đây. Johnny liếc nhìn vào mỗi phòng, băn khoăn không biết tấm đệm đôi trên sàn phòng ngủ bé hơn có phải là chiếc ngày xưa mà hắn, Buck và Grady thường ngủ không. Sue Ann, cô con gái duy nhất trong nhà, từng ngủ trên chiếc ghế dài ngoài phòng khách. Bố mẹ hắn ngủ trên giường trong phòng ngủ bên cạnh, cho đến khi mẹ hắn bỏ đi Chicago với một gã khác. Từ đó, bố hắn ngủ ở đấy với bất kỳ mụ đàn bà dâm đãng nào mà ông ta vơ được. Đôi khi con trai của ông ta - thường là Buck – cũng ngủ với mụ ta luôn.
Nhà.
Hắn quay trở lại phòng khách và tắt tivi.
“Mẹ nhà mày!” Bố hắn nói, mặt méo xẹo vì tức giận. Ông ta đặt chai bia xuống sàn và ngồi dậy.
“Dạo này bố thế nào?” Johnny ngồi xuống đầu bên kia của chiếc ghế dài sau khi nhấc hai chân trần của Willie lên và nhẹ nhàng nắm lấy tay để ngăn ông ta ngồi dậy bật lại tivi.
Mùi bia trộn với mùi của người già xộc vào mũi hắn.
“Đồ chó, bỏ cái tay khốn kiếp của mày ra ngay!” Willie cố gắng giằng để giật tay ra nhưng không được. Johnny mỉm cười với bố và siết chặt nắm tay hơn. Không đau lắm, nhưng đủ mạnh để cảnh cáo. Mọi thứ đã thay đổi, và hắn sẽ không để bị thụi vào bụng hay mồm bất cứ khi nào bố hắn nổi cơn điên nữa.
“Bây giờ bố ở đây một mình à?”
“Liên quan chó gì đến mày? Mày có ở đây đâu mà lo!”
Suốt mười năm không gặp, Willie không hề viết thư, gọi điện hay thăm hỏi gì con mình. Điều đó đã làm mềm đi ký ức của Johnny về ông ta. Thậm chí hắn còn hy vọng là ông ta sẽ vui mừng khi gặp lại mình.
“Con không muốn chuyển về đây ở. Con có một căn hộ trong thị trấn. Con chỉ đến để thăm bố thôi.”
“Tao khỏe hơn rất nhiều trước khi mày vác mặt về đấy.”
Chẳng có gì thay đổi. Chó thật, có thứ gì thay đổi ở cái thị trấn này không thế?
“Dạo này bố có nghe tin gì của Buck hay Ann không?”
Willie khịt mũi. “Sao, mày nghĩ đây là nhà Walton à? Không, tao chẳng nghe tin gì của chúng nó hết. Cũng chẳng thèm quan tâm. Giống như tao chẳng thèm bận tâm xem mày sống chết thế nào.”
Câu nói ấy thật đau đớn. Đáng lẽ ra mọi chuyện không nên như vậy, nhưng sự thật là thế.
Johnny đã định đứng lên, đi ra cửa, và không bao giờ quay lại. Hắn sẽ không bao giờ gặp lại lão già đó nữa.
Nhưng hắn không thể làm thế. Một điều hắn học được trong tù là giá trị của mọi thứ, của mọi người. Của những mối quan hệ. Hầu hết mọi người có chúng mà không cần phải cố gắng gì. Hắn thì chỉ ước ao có được một vài mối quan hệ trong đời.
“Nghe này, bố,” hắn nhẹ nhàng nói. “Bố ghét con và con ghét bố, đúng không? Nhưng không nhất thiết phải tiếp tục như thế mãi. Chúng ta có thể thay đổi mà. Có vô khối người trên thế giới không có người thân. Bố có muốn chết cô độc, không có ai thèm nhỏ nước mắt khóc thương bố trong đám tang không? Quỷ tha ma bắt, con thì không! Chúng ta là gia đình, bố ạ. Máu mủ ruột rà của nhau. Bố không thấy thế à?”
Ông bố nhìn hắn chằm chằm một phút, sau đó thò tay lấy chai bia rồi tu một hơi dài. Nhìn ông ta, Johnny cảm thấy hy vọng cháy bỏng trong lồng ngực. Có thể, biết đâu đấy, bố con họ sẽ làm lại từ đầu.
Willie đặt chai bia xuống và lấy tay lau miệng.
“Chó má, nghe như kiểu nhà tù đã biến mày thành một thằng ẻo lả chó chết vậy. Chắc mấy thằng mọi trong đó đã nặn mày thành một con mụ mau nước mắt rồi. Tao không có thời gian cho mày. Cút ra khỏi nhà tao ngay!”
Trong một thoáng, Johnny phải cố lắm mới cưỡng lại được mong muốn sục sôi là thụi một quả đấm vào bản mặt đểu cáng của lão bố. Nhưng rồi kiềm chế được bản thân, hắn thả cánh tay gầy nhẳng mà mình đang nắm ra rồi đứng lên.
“Tôi mong ông chết rữa dưới địa ngục, lão già ạ,” hắn lạnh lùng nói, rồi xoay người bước ra.
Tiếng cửa kính đóng sầm là câu trả lời duy nhất mà hắn nhận được.
Hắn đi men theo chái nhà qua những chiếc xe tải chở hàng, lên chỗ đường cho xe ô tô và đến nơi trước đây là nhà để xe. Nó vẫn ở đó, hơi nghiêng sang một bên, chẳng khác gì ngày trước. Nhìn con gà mái đậu trên một ô cửa sổ không lắp kính và âm thanh phát ra từ bên trong, hắn biết bây giờ nó được trưng dụng làm chuồng gà rồi.
Johnny cúi đầu xuống dưới cánh cửa thấp và bước vào trong.
Nó vẫn ở đó. Hắn đã không dám hy vọng, nhưng nó vẫn ở đó. Phân gà phủ đầy bên trên, lốp xe đã mục đến tận cùng, và trên ghế ngồi bằng nhựa vinyl có một lỗ thủng làm cho xốp đệm bên trong thò cả ra ngoài. Nhưng nó vẫn dựa cạnh tường nơi trước đây hắn đã để nó ở đó: chiếc xe máy của hắn.
Lạy Chúa, nó đã từng là niềm tự hào của hắn! Một chiếc Yamaha 750, màu đỏ anh đào ánh bạc được mua bằng tiền do chính hắn kiếm được từ những công việc vặt quanh thị trấn, và hắn đã yêu nó như yêu một cô gái đẹp. Khi họ đến bắt hắn, hắn đã cất nó trong nhà xe mà không biết rằng gần mười một năm sau mình mới quay về. Trông nó không có vẻ gì là được ai sờ đến trừ những con gà trong suốt thời gian đó.
Xét về tính năng sử dụng thì nó vẫn còn mới chán. Thay lốp mới, có lẽ là lên dây phanh nữa, rồi nó sẽ chạy ngon y như trước. Hắn sẽ không phải phụ thuộc vào đôi chân hay Rachel Grant để đi đâu đó nữa. Hắn đã có những bánh xe này rồi.
Có thứ gì đó truyền tự tin cho hắn khi có những bánh xe. Hắn đã cảm thấy mình ít đàn ông hơn hẳn khi không có chúng.
Có tiếng gầm gừ trầm đục ở đâu đó đằng sau làm John¬ny phải ngoái lại nhìn. Một con chó đứng trước cửa ra vào, to lớn, chân cứng đờ, lông dựng đứng lên, răng nhe ra. Âm thanh phát ra từ trong cổ họng nó đầy vẻ đe dọa.
Di chuyển thật chậm, Johnny quay lại đối diện với nó. Bên ngoài trời đã tối, và trong nhà xe còn tối hơn. Ánh trăng bàng bạc rọi trên người con vật. Một con chó xấu xí y như những con khác, nhưng có vẻ to xác hơn. Không được cho ăn đầy đủ, được nuôi theo kiểu bần tiện và có lẽ là rất nguy hiểm.
Trước đây gia đình họ luôn luôn có một con chó như thế. To lớn, xấu xí và đầy thù hằn, chắc chắn rồi. Willie đá nó, chòng ghẹo nó, xích nó và bỏ đói nó để biến nó thành đồ hèn hạ. Hèn hạ y như bản thân lão già đó vậy.
Có điều là con chó này không bị xích.
Tiếng gầm gừ trầm hơn, căng thẳng hơn. Đầu nó hạ thấp xuống đầy đe dọa. Johnny thấy các cơ của mình căng lên chờ đợi một cuộc tấn công. Liếc nhìn quanh, hắn tìm thứ gì đó, một khúc gỗ hay đại loại vậy, để đánh con vật khi nó nhảy lên.
Nhưng nó không nhảy. Thay vào đó, sau một tiếng gầm khủng khiếp, nó ngẩng đầu lên, hình như là đang đánh hơi gì đó. Một con gà vỗ cánh và kêu quang quác phía bên phải, nhưng con chó chẳng thèm hướng tai về phía đó. Hình như nó đang nhìn chăm chú vào Johnny.
Giật mình trước thái độ của nó, vừa tò mò vừa sợ, Johnny nhìn lại nó chằm chằm. Khi mắt hắn quét qua màu lông nâu vàng, nhận ra những đặc điểm của cái đầu và đôi tai cũng như độ dày và chiều dài của cái đuôi, hắn chợt nghĩ đến một khả năng lạ thường.
Con chó khẽ ư ử.
“Wolf?” Không thể nào. Hồi hắn bị bắt, con chó mới bốn tuổi. Giờ thì nó... mười lăm tuổi rồi. Một độ tuổi cực kỳ hiếm với một con chó lai bị ngược đãi thường xuyên đến thế.
“Wolf, là mày phải không?” Hồi đó hắn đã rất yêu con chó này, nghe mới ngu ngốc làm sao. Nó là con của một con chó đi lạc sống trong chuồng gia súc mục nát bỏ hoang ở cánh đồng gần đó. Giống như đám anh em và lũ bạn của hắn, Johnny đã ném đá vào con chó cái và đàn con của nó, nhưng đến đêm hắn lẻn ra, mang theo một túi quần đầy mảnh vụn thức ăn. Con chó cái không hề mất cảnh giác với hắn, nhưng những con cún lại không e dè, đặc biệt là con to nhất, nó quấn lấy hắn như chú vịt con quấn mẹ. Một ngày kia, khi đàn chó con được khoảng bảy tuần tuổi, hắn thấy chó mẹ nằm chết bên đường. Không biết phải làm gì khác với chúng, hắn đưa lũ chó con về nhà. Hắn phải biết từ trước mới phải. Bố hắn ngay lập tức đã quẳng bốn con lên thùng sau xe tải và chở chúng đi vứt ở chỗ nào chỉ có Chúa mới biết. Con thứ năm, là Wolf, được cho ở lại vì nó to và vì Willie nghĩ rằng nó có thể trở thành một con chó giữ nhà tốt. Mặc cho Johnny phản đối, Willie vẫn ngay lập tức xích con chó lại và bắt đầu khiến nó trở nên hèn hạ. Dù Johnny đã cố bảo vệ con chó, nhưng thủ đoạn của bố hắn vẫn thành công, đến mức mà Johnny là người duy nhất trên thế giới này còn thấy con chó ấy là hữu ích.
Ở trong tù, khi hắn nằm thức cả đêm nhìn chằm chằm lên chiếc giường tầng phía trên đầu mình, Johnny đã nghĩ rằng hắn nhớ con Wolf nhất.
Đó không phải là điều chó chết đáng buồn trong cuộc đời hắn ư?
Con chó lại ư ử lần nữa. Biết là mình đang rất nực cười, rằng mình có thể mất đi cả bàn tay nếu con chó tấn công, Johnny vẫn bước về phía trước, chìa các ngón tay ra để con chó đánh hơi.
“Wolf đúng không?”
Thật khó tin, con vật khổng lồ đó hạ người xuống và rón rén tiến về phía trước, cư xử như thể nó muốn tin nhưng vẫn sợ bị lừa. Johnny khuỵu hai đầu gối xuống để chào đón nó, tay đưa về phía trước, dò dẫm trong bóng tối, vuốt ve và xoa người con chó trong khi nó rên ư ử, liếm và dụi đầu vào hắn.
“A, Wolf,” hắn nói, cuối cùng cũng chấp nhận sự thật, rằng thứ duy nhất mà hắn từng yêu đã chào đón hắn. Sau đó, khi cái đầu to lớn dụi vào lòng hắn, hắn vòng tay quanh cái cổ dày của con chó và vùi mặt vào người nó.
Lần đầu tiên sau mười một năm, hắn khóc.