Chương : 12
Tôi đã không bao giờ nhìn thấy đứa con. Trong tháng hai, cha tôi đụng phải một sợi đây đu trong nhà máy. Thông báo ban đầu nghe như một sự tạm thời nghỉ làm - có thể sẽ phải đi nạng hoặc là tệ hơn, và không phải cắt bỏ chân tay. Thế nhưng khi mẹ tôi và tôi vào bệnh viện ở Angelus, chúng tôi thấy ông bị dập một nửa bên mặt và họ cho chúng tôi biết là ông bị nứt sọ nặng do va phải một thanh sắt. Không phải lỗi của ai cả, chỉ là một tai nạn bất thường.
- Cha tôi chẳng bao giờ tỉnh lại được nữa.
Eva đã sinh con trong bệnh viện này vào lúc cha tôi đang ở đấy. Lúc ông qua đời thì nàng và đứa con đã rời khỏi viện từ lâu. Cha tôi được chôn cất trong khu nghĩa địa tiền tiêu dọc theo phía sau con sông. Nhiều bạn bè của ông trong nhà máy đã đến. Ông bố mập của Loonie cũng có mặt nhưng vợ chồng Sanderson thì chẳng thấy đâu. Có lẽ là họ đã đi khỏi thành phố này rồi.
Cái chết của cha tôi giáng cho tôi một đòn khá nặng và có vẻ như nhằm vào bản thân tôi. Tôi cảm thấy nó như một sự trừng phạt và đã thực sự cảnh tỉnh cho tôi. Sau sự việc này, mẹ tôi nhìn tôi một cách sợ sệt, có vẻ như tôi là người xa lạ. Giờ đây tôi đã biết rằng không còn có chỗ cho những trò liều nguy hiểm trong cuộc đời mình.
Cái chết nhan nhản khắp nơi - nó đang chờ chực, đang tuôn trào và không sao kìm hãm được. Nó luôn luôn sẵn sàng đến với tôi, với những người thân của tôi, và tôi không còn có gan đùa giỡn với nó nữa.
Bị thúc đẩy bởi sự cô độc, hối hận, và muốn bù đắp phần nào cho mẹ mình, tôi đã dồn hết sức lực vào việc học hành. Tôi không đi lướt sóng nhiều nữa và tôi đã sống cách biệt đến mức bị xem là con người kỳ dị. Hai năm vừa qua ở trường của tôi thật là trống rỗng và đầy tuyệt vọng, nhưng bằng một qui chế dựa vào kỷ luật nhiều hơn là sự mở mang kiến thức, tôi đã lê mình ra khỏi vị trí tận cùng của lớp học và bắt đầu có những tiến bộ. Cuối cùng tôi đạt được điểm xuất sắc nhưng lòng chẳng thấy vui hơn.
Người ta nói rằng cái chết của cha tôi đã mở đầu cho sự kết thúc của nhà máy cưa, và điều họ nói không phải là không đúng. Nhà máy này đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng liên tiếp trong khoảng một chục năm gần đây. Mẹ tôi chỉ nhận được một khoản chi trả ít ỏi rồi sau đó không còn được xem là liên quan gì với nhà máy nữa và chẳng có một khoản trợ cấp nào. Bà đã dành dụm đủ tiền cho tôi học lên đại học và tôi đã cố gắng hết mức để làm một đứa con ngoan. Bà chẳng bao giờ trách móc tôi về chuyện rời bỏ cha mình để theo ông Sando, hoặc đã bỏ rơi bà để chạy theo Eva, dù nếu bà có mắng thì tôi cũng chẳng dám cãi. Tôi đã tách mình ra khỏi cuộc sống của cha mẹ tôi quá lâu, và sự đau xót không thành lời do việc làm này cứ đeo đẳng tôi suốt nhiều năm trời.
Tôi cố tạo một sự gần gũi giữa mẹ với tôi. Từ Angelus, hàng tuần tôi đều viết thư cho bà và cách vài ngày lại gọi điện thoại. Nhiều dịp cuối tuần tôi đón xe về nhà, và trong những ngày nghỉ giữa học kỳ, tôi về ở nhà suốt mấy tuần liền. Tôi cố chứng tỏ là tôi yêu mẹ, nhưng mọi quan hệ giữa chúng tôi chỉ là một sự thất bại lịch sự, không nói thành lời - có trìu mến nhưng không thân mật - và trong tình hình này có lẽ đã có sự toan tính hôn nhân cho tôi.
Năm hai mươi tuổi, sau nhiều năm không đi lướt sóng, tôi đến Bali và cuối cùng đã được nhìn thấy cái hang Uluwatu. Tôi leo xuống cái hang này để đi ra biển và lướt sóng trong vùng nước xoáy tròn trong một giờ, rất sung sức nhưng hoàn toàn không còn thành thạo. Tôi bị ngã một cú nặng, trẹo một đốt sống ở lưng. Phải mất một tuần tôi mới về được nhà ở Perth, và khi đến nơi thì tôi đã rã rời. Chỗ xương lồi đã được chữa nhanh sau đó nhưng tôi gần như suy sụp tinh thần. Chỉ còn vài tuần nữa là tôi lấy bằng tốt nghiệp. Nhưng tôi đã không trở về để hoàn tất việc học của mình. Thay vào đó, tôi cứ tá túc trong thùng xe tải của một trại nuôi gia súc và tìm mọi cách để trì hoãn.
Grace Andrews yêu tôi. Cho dù về sau nàng đã trở nên cảnh giác, nhưng đây mới là điều đáng nhớ. Nàng dạy khoa động vật học ở trường đại học nơi tôi làm việc với tư cách một kỹ thuật viên phòng thí nghiệm. Mẹ tôi mến mộ nàng, bà rất vui mừng khi chúng tôi kết hôn, và tôi cũng rất phấn khởi, chưa bao giờ thấy hạnh phúc như thế trong cuộc đời mình. Chúng tôi có hai đứa con gái, rất xinh đẹp khiến tôi không ngớt lo âu về chúng. Và giờ đây chúng đã là những phụ nữ, đủ lớn khôn để thấy ở tôi một niềm vui hơn là một thứ gì bí hiểm.
Khi Grace có mang, nàng nói tôi thật kỳ lạ trong chuyện này. Đàn ông, nàng nói, phần nhiều đều ghê sợ sự chảy dịch, cái bụng bầu, cái mông to và những cổ chân sưng húp. Vậy là bình thường.
Tôi cười. Tôi thực sự nghĩ là nàng nói đùa.
- Vậy thì em thích sự ghê sợ hơn sự tôn kính hay sao?
- Người con gái vẫn mong được tôn kính chứ, nàng đáp. Nhưng dục vọng có tôn kính lại là một chuyện khác.
- Em muốn nói gì vậy? - Tôi hỏi, vẫn còn nhe răng ra cười.
- Vâng, kỳ lạ lắm.
- À, phải. Kỳ lạ.
Vẫn có một chút cười đùa trong giọng nói của chúng tôi nhưng tôi thấy khó chịu qua cuộc trao đổi này. Nhiều năm sau, khi nó đã không còn quan trọng nữa, tôi đã phạm một sai lầm khi nhắc lại cuộc nói chuyện này trong lúc chở mấy đứa con về nhà vào một buổi chiều chủ nhật. Có bức hình của một nữ diễn viên khoả thân mang bầu trên trang bìa của một tạp chí về sự quyến rũ, bức hình đã gây ra một sự xôn xao đáng kinh ngạc. Theo tôi thì đây chỉ là một tấm hình đẹp và táo bạo, nhưng tôi muốn biết Grace nghĩ thế nào. Nàng lấy làm khó chịu, thậm chí cả với việc tôi đã đem chuyện này ra nói.
- Thật là thô lỗ, nàng nói trong khi mấy đứa con của chúng tôi mang những cái túi đồ của chúng lên bậc cửa phòng nàng. Ngày nay họ có xu hướng khiêu dâm.
- Phải - Tôi lẩm bẩm.
Tôi tựa người bên chiếc xe, cảm thấy khả năng mọi việc rồi sẽ hỏng bét một cách vô phương cứu chữa. Có lẽ tôi đã dại dột động đến chuyên này. Tôi không phải là người thành đạt cho lắm nhưng tôi nghĩ mình đã từng là một người chồng trung thực, hiền lành. Không bao giờ kháng khăng đòi hỏi trong chuyện tình dục, tôi muốn tránh gây ra những chuyện lố lăng. Tôi không quan tâm đến vấn đề khiêu dâm. Tôi làm cho mình trở thành một con người hoàn toàn an toàn và bình thường - một nhân viên phòng thí nghiệm, chẳng phải là mối đe doạ cho một ai cả. Thế nhưng.
Tôi vẫy chào và trở vào trong xe.
Chẳng ai muốn là người kỳ dị. Tôi rất cẩn thận, luôn biết nhường nhịn. Trong cuộc đời, nhiều lúc, nhiều nơi tôi trở thành tê dại. Tôi không thể nói đó là chuyện gì và đã không dám thử. Bạn giải thích như thế nào về cái cảm giác trở thành một người không phù hợp? Tôi rút vào trong sự chính trực tỉnh táo, muốn làm vui lòng người khác. Chẳng dám liều lĩnh điều gì. Tôi tuân theo bản sơ phác của cuộc đời mình, cẩn thận trình diễn phần hình thức mà không có sự tin chắc, giống như một giám mục không thể thấy rằng tín ngưỡng của mình đã trở thành một công vụ.
Dù muốn dù không, tôi thường phải gặp rắc rối với điện. Đôi khi tôi hồi tỉnh trên sàn nhà lát đá trong sở làm, bên dưới các bồn rửa, dưới các chiếc ghế dài, nơi sực nức mùi agar và thuốc tẩy trùng, mùi formaldehyd, tất cả hoà trộn vào nhau như một thứ gì huyền bí phàm trần, và sự hồi tỉnh kéo theo một sự nhạt nhẽo u sầu, giống như nỗi buồn còn lại sau cuộc ái ân.
Tôi đã không hiểu được cách xử sự này. Tôi không có sự quan tâm đặc biệt nào với điện. Được cung cấp sẵn, nó là một sự hiện diện hiệu quả, sờ sờ trong một thế giới chối bỏ mọi sự hiện diện. Nó quả là một phút giây của cảm giác thực, giống như một cú đấm vào đầu. Nó làm cho tôi ngã nhào. Nó gây thương tổn ghê gớm nhưng nó là một thứ mà tôi có thể cảm nhận.
Trong phòng đợi của một nha sĩ, vào một năm nào tôi không nhớ rõ, tôi tình cờ nhìn thấy tấm hình của Bill Sanderson trên một tạp chí du lịch. Trông có vẻ như ông ta đang thống trị cả một vương quốc. Những tấm ván trượt tuyết, những trang phục leo núi - tất cả đều mang vẻ thanh lịch khác thường. Bài phỏng vấn có đề cập đến bà Eva vợ ông và đứa con trai Joseph của họ - một cái tên đạo dòng Mormon chính cống. Họ nói nhiều về những rủi ro theo cái nghĩa tài chính. Sando là một guru về đầu tư, một tay thuyết phục có tài. Nổi bật trên triền đồi Aspen, ông ta trông giống như con gấu nâu, một tay phong trần, một người nổi tiếng.
Chính mẹ tôi đã gởi cho tôi các mẩu tin cắt rời về Eva Sanderson. Tôi vẫn không biết vì sao bà làm thế. Cho đến lúc ấy tôi vẫn chưa đủ tin tưởng ở mẹ tôi để nghĩ rằng bà có thể thấy vui đôi chút khi gởi những tin tức ấy cho tôi. Nhưng cũng có thể bà chỉ nghĩ rằng tôi muốn biết, thế thôi.
Nếu không có những chi tiết hơi giật gân và sự liên hệ với số tài sản ở Utah thì có lẽ cái chết của Eva cũng chẳng được ai nói tới. Dù sao nó cũng chỉ chiếm khoảng hai inch trong một cột tin của Reuter. Eva được tìm thấy trong tình trạng treo cổ khoả thân phía sau một cánh cửa phòng tắm ở Portland, Oregon. Một nhân viên khách sạn, người E1 Salvador đã phát hiện ra nàng với một sợi đai quanh cổ. Người quá cố là khách ở một mình trong căn phòng năm sao, nguyên nhân của sự ngưng tim gây tử vong là do ngạt thở.
Chẳng có ai để tôi có thể nói chuyện ngoài mẹ tôi. Grace, vợ tôi, đã tìm thấy các mẩu tin này và muốn biết, một cách rất hợp lý, là chúng có ý nghĩa gì. Nhưng tôi không thể nói ra. Tôi không muốn liều lĩnh gây ra thật nhiều rắc rối nơi chính mình. Tôi đã dập tắt ngay câu chuyện. Với một cái giá khá đắt.
Không thể trách Grace về những gì đã xảy ra. Nàng chỉ muốn giữ gìn hạnh phúc gia đình mà thôi. Nàng phải nghĩ đến sự nghiệp của mình, và phải lo cho mấy đứa con. Và cuối cùng, tôi đã không tỏ ra xứng đáng. Không có gì để thắc mắc cả.
Sau đó tôi đã phải tự cấm cửa mình một dạo. Tôi chỉ cho phép mình ra ngoài để đi dự đám tang của mẹ tôi, một ngày đau khổ và khó quên. Tôi xem đám tang này như một lời nguyền về sự thất bại của mình, cũng như một sự tôn kính đối với cuộc đời người mẹ hiền dịu của tôi. Hai đứa con gái tôi đều có mặt. Chúng có vẻ vui mừng khi nhìn thấy tôi, và tôi không thể ngăn sự dè dặt ngoài ý muốn của chúng. Grace để người chồng mới của nàng ở nhà dù nàng chẳng cần phải làm thế. Tôi phải biết cư xử chứ. Nàng có vẻ buồn nhưng kiên quyết và rõ ràng là nàng bối rối khi nhìn thấy tôi như thế này. Khi ấy, tôi đã mang vài vết sẹo và đờ đẫn vì uống thuốc nhiều. Tôi thấy không hy vọng gì được quyền nuôi con khi nàng dẫn hai đứa con gái ra xe của nàng. Những người đưa đám quanh tôi đều dè dặt nhưng không lo sợ vì tôi chưa hề là một con người hung bạo. Có vẻ như hơi dị kỳ một chút thôi.
Tôi không trở lại bệnh viện làm việc nữa. Tôi bỏ ngang một cuộc hẹn. Tôi leo lên xe và chạy về hướng đông, cố đi thật xa bờ biển và thành phố này.
Khi tôi bước vào trong phòng thì thấy một người đàn ông cao lớn lêu khêu, suốt ngày mang theo bên mình một cuốn Thánh kinh. Ông ta có thói quen chăm chú lắng nghe những gì bạn nói khi làm công tác tập thể, rồi sau đó tiếp cận bạn bằng vài câu thơ và từ đó tán rộng ra. Tôi thấy ông ta nói chuyện cũng hấp dẫn, nhưng tôi chỉ muốn véo tai ông ta khi ông bảo với tôi rằng một người đàn ông dù chỉ tơ tưởng trong đầu về vợ người hàng xóm thì đã phạm tội ngoại tình rồi.
- Thôi đi, Desmond - Tôi nói - Đừng có nói dóc.
- Anh không thể bác bỏ điều đó!
- Ai ai cũng có quyền suy nghĩ, ước mơ. Nhưng hầu hết các ý tưởng ấy đều đến rồi đi mà không gây ra phiền phức cho ai cả.
Desmond lắc đầu. Tôi muốn nắm lấy tóc ông ta, nặn hết chất độc kia ra khỏi đầu ông. Muốn, nhưng không làm. Tôi bảo ông ta là con người tồi tệ và nguy hiểm, ông không nên nói những điều như thế, đặc biệt là với những con người nhạy cảm như chúng tôi đây. Tôi thật đáng trách vào lúc ấy, nhưng còn đủ minh mẫn để thấy rằng có cả một sự khác biệt lớn giữa nghĩ những điều gì và làm những điều ấy.
- Anh còn thiếu đạo đức căn bản - Ông ta dịu dàng nói.
- Ông gọi thế là đạo đức à? Tôi nói, cố gắng để không quát lên - Ông cho rằng người ta không biết phân biệt giữa những gì họ nghĩ và họ làm à?
- Chàng trai ơi, tôi nói như thế là vì tình thương mà thôi, Desmond nói. Anh đang bị vây hãm trong tội lỗi đó.
Những kiểu nói chuyện như thế khiến cho tôi sợ, bởi vì trong một lúc yếu mềm nào đó, mình có thể tin theo như thế. Tôi đã chán ngấy, buồn nản và bất cần, nhưng không muốn nhượng bộ sự đạo đức giả. Tôi từng là nạn nhân của những điều tin chắc sai lầm đầy rẫy cho nên tôi sợ lắm rồi. Có thể tin rằng khi một ý tưởng đến trong đầu bạn thì một hành động có thể sinh ra, và mình không thể cưỡng lại. Có vẻ như là sự suy nghĩ một điều gì đôi khi khiến cho điều đó xảy ra, khiến cho hành động ấy là một điều không thể tránh khỏi, thậm chí là cần thiết, cần phải nhắc nhở mình rằng sự thật không phải là thế.
- Bị vây hãm trong những tội lỗi - Desmond nói.
- Không - Tôi nói - Tôi là một nạn nhân tình nguyện.
Vì không tin rằng mình sẽ không tát vào mặt ông ta, cho nên điều tôi không nói ra là không một ai phải làm nô lệ cho những ý tưởng của mình - tức là bị vây hãm, tức là tội lỗi.
Tất cả những người có mặt ở đó đều nhìn vào Desmond và tôi, chờ đợi một sự to tiếng. Trong đám người quanh ta có những kẻ tin rằng trẻ con bị chết và thành phố ra tro là do những ý tưởng mà người ta có.
- Anh có thấy thèm khát vợ của người hàng xóm không? Người con gái với hai cánh tay đầy sẹo hỏi. Thật đấy, cô ta nói hài hước, nói cho em nghe đi.
- Tôi thèm vợ tôi. Vợ tôi giờ đây là vợ của người hàng xóm tôi. Và vợ của người hàng xóm tôi trước đây nay đã chết rồi.
- Kìa, thật là tầm bậy - Có người nói.
- Không có thèm khát à?
- Không thèm lắm - Tôi nói. Giờ đây thì không.
Loonie đã chết ở Mêhicô, nó bị bắn trong một quán bar ở Rosarito, không xa Tijuana. Một vụ buôn bán ma tuý đã kết thúc tai hại. Có thể là nó đã làm ăn với những viên cảnh sát xấu. Suốt nhiều năm trời, những câu chuyện ấy vẫn cứ tìm về với tôi, những điều nhìn thấy trên các bãi biển phía bắc của Sidney, ở Pêru, hay ở Mentawais. Danh tiếng gan dạ của nó vẫn còn lưu lại lâu dài. Nó lướt sóng tưng bừng, sống tưng bừng và dường như kiếm tiền cho những việc này bằng các thủ đoạn buôn lậu ma tuýế Người ta nói là nó đã nhiều lần mua đường đi tới tận Indastorysia và đã tiếp xúc với giới binh sĩ tại đây. Tôi băn khoăn về chuyện học nghề của nó với ông Sando, ngoài việc lướt sóng ra còn liên quan nhiều ít đến những chuyên khác nữa - những chuyến đi đến Thái Lan, những lần vắng mặt dài ngày không được giải thích, những tấm ván lướt sóng từ mọi nơi trên thế giới gởi về - và phải chăng tiền bạc của gia đình Sando đã được bổ sung bằng lợi tức của việc kinh doanh đen tối này?
Tôi thấy đau nhói khi được tin về Loonie. Tôi bị choáng váng như lúc nghe tin cái chết của Eva, nhưng còn cảm thấy một sự trống rỗng, giống như vừa đột ngột mất đi một cái gì trong tôi.
Từ một phòng điện thoại ở Wiluna, xung quanh là những kính vỡ và vết máu, tôi gọi cho Grace.
- Xin lỗi phải gọi cho em - Tôi nói
- Vâng, có lẽ anh đang buồn.
- Những người anh quen đều chết hết cả rồi. Hoặc đã đi xa rồi.
- Vậy anh định làm gì?
- Gác bỏ tất cả đằng sau - Tôi nói như một chính khách. Anh định gác bỏ lại đằng sau và tiếp tục đi tới.
Nàng gác máy cái rụp.
Tôi sống một thời gian với một tu sĩ hoàn tục. Ông ta nghiện rượu và là một người khôn ngoan nhưng có lúc tôi đã thù ghét ông ta. Tôi chỉ vào xin nước đổ vào cái két nước đang sôi sùng sục của chiếc xe tôi, nhưng ông ta thấy rằng đó không phải là sự hỏng hóc quan trọng nhất của tôi. Rõ ràng là không phải ông ta đánh mất sứ mệnh truyền giáo của mình vì việc giấu chùm chìa khoá xe của tôi suốt ba tuần lễ rồi mới cho tôi chui trở lại trong cái vỏ của mình.
Chúng tôi cùng sống bên cạnh một hồ nước mặn đã cạn, suốt ngày lăn tăn róc rách. Mặc dù khô nóng và nứt nẻ nhưng nó có vẻ luôn đầy nước. Sau khi tôi đã chữa xong chiếc xe và được ông ta trả chìa khoá lại, tôi vẫn còn ở lại đây một thời gian dài- tổng cộng là sáu tháng. Ông bạn già này nằm ngủ bên trong một cái cũi sắt, còn tôi thì trải mớ vật dụng của mình ra bên dưới trời sao lấp lánh ở chỗ lòng hồ đã khô. Ban ngày chúng tôi ngồi trong bóng râm lỗ chỗ của hàng hiên trong khi mọi thứ hiện ra rồi lại biến đi ở trước mặt mình. Chúng tôi cười nhìn cái ảo ảnh lung linh và cùng chung một nỗi hoài nghi. Vị tu sĩ này nói rằng suốt mười lăm năm qua ông chẳng động tới một giọt rượu, rằng ông đã vượt ra ngoài sự suy tưởng thần bí. Nhưng hồ nước mặn đã khiến cho ông sẵn sàng hành động. Và tôi đã hiểu điều ông muốn nói. Toàn những điều đáng kinh ngạc.
Tôi đã không lấy lại được sự bình tĩnh hoàn toàn. Tôi đã vượt qua một số ý niệm nhưng một phần trong tôi cứ lòng vòng trở lại, như đám ruồi nhặng, những ký ức, hay những vi thể hạ nguyên tử vì những lý do riêng của chúng cứ chực bay vòng trở lại như thế. Tôi đã góp nhặt từng tí từng tí một, và rồi tôi đã đúc kết được ít nhiều. Tôi tiếp tục đi tới và đã có một cuộc sống khác. Nói đúng hơn, tôi vẫn đi tới và vận dụng tối đa cuộc sống trước đây của mình.
Có một dạo, tôi e ngại sự xúc động. Nhưng tôi đã tìm cách để vượt qua điều đó. Tôi khám phá ra một việc thích hợp với mình, một việc mà tôi có thể làm lấy một mình. Tôi trở thành một nhân viên cấp cứu đắc lực. Khi có tai nạn xảy ra, tôi đến đó ngay, và mọi người vui mừng khi thấy tôi. Thấy bộ đồng phục thì họ đã tin tưởng và điều này làm cho tôi hạnh phúc. Mọi việc đã diễn ra trôi chảy, với sự hào hứng và lẹ làng.
Khi những đứa con tôi còn đi học, tôi thường ở bên cạnh chúng trong những dịp cuối tuần và nghỉ phép hàng năm, nhưng giờ đây chúng đã lớn thì tôi đi nhiều hơn. Tôi đến những nơi hoang dã lướt sóng, chèo bè, hay đi bộ việt dã. Tôi đã bay lướt lên trên những chiếc máy bay dãi nắng ở New Guinea và cưỡi sóng ở những bãi biển nơi mà đám cướp biển của Ollie North đổ bộ vũ khí. Tôi đã gặp nhiều con người tử tế, cả đàn ông và đàn bà.
Tôi xem mình như người độc thân, như vậy nghe có vẻ cao thượng, nhưng chủ yếu là cả một quá trình học để mà làm. Nó hơi giống với cuộc sống của người có gia đình, theo những gì nghe người ta nói.
Trong Thế vận hội năm 2002, một tay trượt tuyết trên không người úc đã đoạt một huy chương vàng và chỉ một sớm một chiều đã trở thành một anh hùng dân tộc của một đất nước phần nhiều không có tuyết. Cô gái tóc vàng xinh đẹp bỗng nhiên được chiếu trên truyền hình cả nước, cô ta quảng cáo cho ngũ cốc, cho kẹo bánh và cho đủ thứ trên đời. Tôi nghĩ đến Eva.
Gần đây hơn, tôi bước vào phòng đợi của sân bay, nơi có màn hình video cực lớn giới thiệu sơ lược về các môn thi đấu mùa đông ở Turin. Suốt khoảng mười phút, chúng tôi phải xem cảnh chiếu đi chiếu lại của một tay trượt tuyết trên không bị thất bại. Đường bay lượn cao và xoắn. Góc quay một phần tư quá xa. Có thể nhìn thấy thực tế phũ phàng về cái đầu gối bị dập của cô ta khi vừa tiếp đất. Chúng tôi có hình cận cảnh để khẳng định điều này, và có một cái gì đó nghe thật rùng rợn trong lời thuyết minh theo cùng đoạn phim. Những hành khách xung quanh tôi không bị kích động mấy. Họ đã hoá nhàm, và màn trượt tuyết trên dây căng cao này đã cũ rích. Nhưng kìa người con gái ấy đang lao nhanh xuống núi trong tư thế bật ngửa, cố giữ lấy cái chân mình. Tiếng kêu la. Lặp đi lặp lạiề Trông như cô ta buộc phải mãi mãi chỉ làm một việc tuột dốc, què lết khập khiễng chứ chẳng làm gì khác. Tôi phải đứng dậy, cầm lấy cái túi của mình rồi bỏ đi, cho khuất mắt khỏi công cuộc kinh doanh bi thảm đang diễn đi diễn lại nhiều lần ở trạm ga chót, cố giữ lấy sự bình tĩnh cho mình. Không phải là sự lặp lại của cơn ác mộng này khiến tôi nhớ đến Eva - nó đã là ký ức của cái tôi ngày trước - và hình chiếu chậm là một minh hoạ cho các cách thức làm việc của đầu óc tôi suốt một thời gian dài.
Có vẻ như chẳng có cái gì đáng sợ trong cuộc đời ngoài chính cái sợ. Đây là một kiểu nói dóc trong các quán rượu, ở nơi chuyển giao của trạm cứu thương. Quả thật là người ta đã nói nhiều về cái sợ. Cùng với những câu chuyện phiếm về các nhân vật nổi tiếng, sự giảm cân và các mức thưởng.
Không ai muốn mình là người sợ sệt. Chẳng trách họ được. Phát triển dựa trên sự liều lĩnh là điều tệ hại - trừ khi bạn đang làm kinh doanh. Những nhà lãnh thầu là những con người gan dạ, nhưng người nhảy từ trên cao xuống là những tay liều. Những thuỷ thủ đơn độc là sự lãng phí tài nguyên cứu nạn, và những người trượt tuyết nhảy từ trên trực thăng xuống là những con lừa tự sát. Những phóng viên chiến trường, như chúng ta biết, là những con người khiến ta ghê sợ. Một số chuyện liều có vẻ như vượt quá sự khâm phục. Trong khi đó thì gần như ai ai cũng đều lo sợ rằng chuyện này là thế, cho dù cuộc đời có như thế nào. Kiểu sợ này - giống như bệnh đau răng - có thể thích ứng được. Phải, phần nhiều là thế.
Đó là thứ chuyện tôi đã nghiền ngẫm nhiều lần trong góc một căn phòng nhỏ trong khi bọn trẻ còn đang xem chương trình Thần tượng và trắc nghiệm những người mà chúng yêu thích. Đó là cách tôi lấp kín thời gian khi chẳng có chuyện gì làm. Suy nghĩ mông lung, bỡn cợt với sầu muộn.
Nhưng khi có người gọi đến thì tôi ra đi, tươi cười nhưng lo ngại - và phấn khích như một con chó lên cơn.
Kinh nghiệm rút ra được trong cuộc chơi của chúng tôi là các nhân viên cấp cứu có thể là những thiên thần hoặc những cao bồi và có vẻ như tôi là một ví dụ sống của nhóm người sau. Phần nhiều tôi không bị phiền phức. Tôi làm việc với những con người mất trí hoặc sắp mất trí cho nên tôi thường cảm thấy thoải mái và quen thuộc.
Tôi đang làm một công việc hữu ích. Khi xe cấp cứu hụ còi thì tôi sẵn sàng có mặt; tôi làm hết sức mình. Tôi được giao một nhiệm vụ xung yếu, nhưng bên trong đó còn có một nơi yên vắng, tĩnh lặng như là tâm bão. Tôi yêu cái uy tín tu sĩ của bộ sắc phục, chiếc xe và đèn chớp, sự đảm bảo mà chúng đem lại cho những con người chúng tôi sắp đến. Khi những thường dân trông thấy bộ sắc phục và cái túi cấp cứu thì họ yên tâm tin tưởng phần nào, và trong khi chúng tôi làm việc thì niềm tin của tôi và của họ gặp nhau. Tôi đến đây để cứu vãn, để cải thiện những gì tồi tệ và để làm điều lành.
Có những khi mình làm được việc và có những khi không được. Có những đêm như đêm vừa rồi, khi tôi đến nơi thì đã quá muộn, và chỉ biết cầm lấy bàn tay nạn nhân. Tôi cố gắng để không qui trách hẳn chuyện đó cho riêng mình nhưng nó cứ ám ảnh mãi, chuyến đi ra vùng ngoại ô hôm ấy. Giống như một cơn gió quá khứ thổi về, giống như một khung cửa được đẩy sang một bên. Tôi đã nhìn thấy rõ điểm khác biệt giữa vụ tự tử của một đứa trẻ tuổi mới lớn và một sự tự tin tai hại. Tôi biết một đứa bé trông thế nào khi nó chơi trò thắt cổ.
Tôi thổi chiếc ống didj cho đến khi rát cổ, tê môi; cho đến khi một vài phụ nữ đi qua chìa một ngón tay khinh thị.
Mỗi năm tôi dành ra vài tuần để lái xe về phương nam, đến Sawyer với thành ý tìm lại ngôi nhà ngày ấy. Nhà máy cưa đã không còn nữa, bãi nhốt gia súc đã được trồng nho. Thành phố ngày nay nhan nhản những nhà nấu rượu và những quán rượu xềnh xoàng có cả chỗ ăn chỗ ngủ. Một cặp đồng tính chế biến phô mai trong ngôi nhà kế cận. Họ giống như một màn trình diễn giúp vui và là láng giềng tốt của nhau.
Tôi chẳng gặp một người quen nào, ngoài ông Slipper trong số những người dân Angelus táo bạo thỉnh thoảng chèo chiếc xuồng dài surfski ra tận Mũi đất. Ngôi nhà của Sando và Eva đã không còn nữa và miếng đất này đã bị chia năm xẻ bảy. Các luật sư cùng các kiến trúc sư từ trong thành phố đã ra đây xây cất những nhà nghỉ cuối tuần lòe loẹt trên khắp vùng đất này.
Tấm ván Brewer cũ vẫn còn thấy trong nhà kho của cha tôi. Từ ngày tôi để lạc mất nó ở Old Smoky đến nay chẳng có ai dùng đến nó cả. Ngày nay, nơi vỉa đá ngầm ngoài kia, các tay lướt ván được các jetski kéo theo đằng sau ngọn sóng. Có thể tưởng tượng tiếng ồn và mùi dầu xăng ở đây. Vịnh Barney vẫn còn có người lướt sóng nhưng không thường xuyên. Con cá voi trắng lớn cư ngụ nơi đây dường như vẫn còn, và nó đã được bảo vệ theo qui chế các chủng loài bị đe doạ. Theo tôi được biết thì bãi Nautilus vẫn chưa được thế hệ sau này khám phá.
Tôi chẳng bao giờ làm được gì nhiều cho quê nhà khi tôi còn ở Sawyer. Thời gian thật quý giá. Tôi có một cỗ máy thực sự cũ kỹ, từ thời những năm sáu mươi. Tôi lắp nó vào trong chiếc xe đa dụng, chạy xuống tới Mũi đất, rồi tôi chèo ngang qua đám người lướt sóng ván cụt để bắt lấy những con sóng đợt hai.
Tôi đến đây không phải để chứng tỏ một điều gì - đã gần năm mươi rồi. Tôi bị viêm khớp và đau vai, nhưng tôi vẫn còn giữ được ít nhiều phong độ. Tôi trượt xuôi theo những bức tường nước xanh rờn đi vào trong vịnh để cảm nhận trở lại những cảm giác lúc đầu của mình, những thứ mà mình đã để mất đi quá nhanh và quá lâu, đó là đà phóng ngọt ngào, lực xoay ở dưới bàn chân và những giây phút xuất thần hiếm hoi ngắn ngủi. Tôi đang khiêu vũ theo cách của những người đàn ông khiêu vũ dưới phố bốn mươi năm về trước.
Những đứa con tôi thỉnh thoảng về ở với tôi. Có khi chúng dẫn cả bạn trai của chúng về nữa, tôi không thấy gì phiền phức. Tôi dọn dẹp ngôi nhà cả tuần lễ trước khi chúng về. Chúng đã từng chứng kiến sự hỗn độn lúc đầu cho nên giờ đây chúng sẽ thấy được giá trị của sự trật tự. Tôi nghĩ là công việc đang làm của tôi khiến chúng yên tâm, tôi muốn cho chúng thấy rằng tôi đang có một mục đích trong cuộc đời. Công việc này và thu nhập của nó giúp tôi tự lo cho mình được. Tôi cần cù với công việc của mìnhề Vì đối với chúng, điều quan trọng là chúng phải biết rằng tôi không phải là con người vô dụng. Tôi nghĩ chúng đã biết việc lái chiếc xe ngựa khó như thế nào, tôi đã cứu được những mạng người và cố làm một người tử tế. Tôi đã cố hết sức để giải thích những điều rắc rối mà không cần đến sự cộc cằn. Giờ đây chúng đã trưởng thành, nhưng tôi hãy còn minh mẫn, cẩn thận để không gây sự ngạc nhiên, bởi đã từng có quá nhiều tai hoạ, quá nhiều nhục nhã.
Thời điểm yêu thích nhất của tôi là khi mấy cha con tôi cùng ra Mũi đất, vì khi chúng nhìn thấy tôi băng ra vùng nước thì tôi chẳng cần phải e dè và chẳng bao giờ thấy xấu hổ. Ở ngoài khơi này, tôi được tự do. Tôi không cần phải ứng phó. Có lẽ chúng không hiểu được điều này, nhưng điều quan trọng đối với tôi là làm cho chúng thấy rằng cha của chúng là một con người luôn hoạt động - cứu nhiều sinh mạng và chuyên chở những người bị thương, phải, nhưng cũng biết làm một điều gì đó hoàn toàn vô nghĩa mà đẹp đẽ và ít ra trong việc này, tôi chẳng cần gì phải giải thích.
- Cha tôi chẳng bao giờ tỉnh lại được nữa.
Eva đã sinh con trong bệnh viện này vào lúc cha tôi đang ở đấy. Lúc ông qua đời thì nàng và đứa con đã rời khỏi viện từ lâu. Cha tôi được chôn cất trong khu nghĩa địa tiền tiêu dọc theo phía sau con sông. Nhiều bạn bè của ông trong nhà máy đã đến. Ông bố mập của Loonie cũng có mặt nhưng vợ chồng Sanderson thì chẳng thấy đâu. Có lẽ là họ đã đi khỏi thành phố này rồi.
Cái chết của cha tôi giáng cho tôi một đòn khá nặng và có vẻ như nhằm vào bản thân tôi. Tôi cảm thấy nó như một sự trừng phạt và đã thực sự cảnh tỉnh cho tôi. Sau sự việc này, mẹ tôi nhìn tôi một cách sợ sệt, có vẻ như tôi là người xa lạ. Giờ đây tôi đã biết rằng không còn có chỗ cho những trò liều nguy hiểm trong cuộc đời mình.
Cái chết nhan nhản khắp nơi - nó đang chờ chực, đang tuôn trào và không sao kìm hãm được. Nó luôn luôn sẵn sàng đến với tôi, với những người thân của tôi, và tôi không còn có gan đùa giỡn với nó nữa.
Bị thúc đẩy bởi sự cô độc, hối hận, và muốn bù đắp phần nào cho mẹ mình, tôi đã dồn hết sức lực vào việc học hành. Tôi không đi lướt sóng nhiều nữa và tôi đã sống cách biệt đến mức bị xem là con người kỳ dị. Hai năm vừa qua ở trường của tôi thật là trống rỗng và đầy tuyệt vọng, nhưng bằng một qui chế dựa vào kỷ luật nhiều hơn là sự mở mang kiến thức, tôi đã lê mình ra khỏi vị trí tận cùng của lớp học và bắt đầu có những tiến bộ. Cuối cùng tôi đạt được điểm xuất sắc nhưng lòng chẳng thấy vui hơn.
Người ta nói rằng cái chết của cha tôi đã mở đầu cho sự kết thúc của nhà máy cưa, và điều họ nói không phải là không đúng. Nhà máy này đã trải qua nhiều cuộc khủng hoảng liên tiếp trong khoảng một chục năm gần đây. Mẹ tôi chỉ nhận được một khoản chi trả ít ỏi rồi sau đó không còn được xem là liên quan gì với nhà máy nữa và chẳng có một khoản trợ cấp nào. Bà đã dành dụm đủ tiền cho tôi học lên đại học và tôi đã cố gắng hết mức để làm một đứa con ngoan. Bà chẳng bao giờ trách móc tôi về chuyện rời bỏ cha mình để theo ông Sando, hoặc đã bỏ rơi bà để chạy theo Eva, dù nếu bà có mắng thì tôi cũng chẳng dám cãi. Tôi đã tách mình ra khỏi cuộc sống của cha mẹ tôi quá lâu, và sự đau xót không thành lời do việc làm này cứ đeo đẳng tôi suốt nhiều năm trời.
Tôi cố tạo một sự gần gũi giữa mẹ với tôi. Từ Angelus, hàng tuần tôi đều viết thư cho bà và cách vài ngày lại gọi điện thoại. Nhiều dịp cuối tuần tôi đón xe về nhà, và trong những ngày nghỉ giữa học kỳ, tôi về ở nhà suốt mấy tuần liền. Tôi cố chứng tỏ là tôi yêu mẹ, nhưng mọi quan hệ giữa chúng tôi chỉ là một sự thất bại lịch sự, không nói thành lời - có trìu mến nhưng không thân mật - và trong tình hình này có lẽ đã có sự toan tính hôn nhân cho tôi.
Năm hai mươi tuổi, sau nhiều năm không đi lướt sóng, tôi đến Bali và cuối cùng đã được nhìn thấy cái hang Uluwatu. Tôi leo xuống cái hang này để đi ra biển và lướt sóng trong vùng nước xoáy tròn trong một giờ, rất sung sức nhưng hoàn toàn không còn thành thạo. Tôi bị ngã một cú nặng, trẹo một đốt sống ở lưng. Phải mất một tuần tôi mới về được nhà ở Perth, và khi đến nơi thì tôi đã rã rời. Chỗ xương lồi đã được chữa nhanh sau đó nhưng tôi gần như suy sụp tinh thần. Chỉ còn vài tuần nữa là tôi lấy bằng tốt nghiệp. Nhưng tôi đã không trở về để hoàn tất việc học của mình. Thay vào đó, tôi cứ tá túc trong thùng xe tải của một trại nuôi gia súc và tìm mọi cách để trì hoãn.
Grace Andrews yêu tôi. Cho dù về sau nàng đã trở nên cảnh giác, nhưng đây mới là điều đáng nhớ. Nàng dạy khoa động vật học ở trường đại học nơi tôi làm việc với tư cách một kỹ thuật viên phòng thí nghiệm. Mẹ tôi mến mộ nàng, bà rất vui mừng khi chúng tôi kết hôn, và tôi cũng rất phấn khởi, chưa bao giờ thấy hạnh phúc như thế trong cuộc đời mình. Chúng tôi có hai đứa con gái, rất xinh đẹp khiến tôi không ngớt lo âu về chúng. Và giờ đây chúng đã là những phụ nữ, đủ lớn khôn để thấy ở tôi một niềm vui hơn là một thứ gì bí hiểm.
Khi Grace có mang, nàng nói tôi thật kỳ lạ trong chuyện này. Đàn ông, nàng nói, phần nhiều đều ghê sợ sự chảy dịch, cái bụng bầu, cái mông to và những cổ chân sưng húp. Vậy là bình thường.
Tôi cười. Tôi thực sự nghĩ là nàng nói đùa.
- Vậy thì em thích sự ghê sợ hơn sự tôn kính hay sao?
- Người con gái vẫn mong được tôn kính chứ, nàng đáp. Nhưng dục vọng có tôn kính lại là một chuyện khác.
- Em muốn nói gì vậy? - Tôi hỏi, vẫn còn nhe răng ra cười.
- Vâng, kỳ lạ lắm.
- À, phải. Kỳ lạ.
Vẫn có một chút cười đùa trong giọng nói của chúng tôi nhưng tôi thấy khó chịu qua cuộc trao đổi này. Nhiều năm sau, khi nó đã không còn quan trọng nữa, tôi đã phạm một sai lầm khi nhắc lại cuộc nói chuyện này trong lúc chở mấy đứa con về nhà vào một buổi chiều chủ nhật. Có bức hình của một nữ diễn viên khoả thân mang bầu trên trang bìa của một tạp chí về sự quyến rũ, bức hình đã gây ra một sự xôn xao đáng kinh ngạc. Theo tôi thì đây chỉ là một tấm hình đẹp và táo bạo, nhưng tôi muốn biết Grace nghĩ thế nào. Nàng lấy làm khó chịu, thậm chí cả với việc tôi đã đem chuyện này ra nói.
- Thật là thô lỗ, nàng nói trong khi mấy đứa con của chúng tôi mang những cái túi đồ của chúng lên bậc cửa phòng nàng. Ngày nay họ có xu hướng khiêu dâm.
- Phải - Tôi lẩm bẩm.
Tôi tựa người bên chiếc xe, cảm thấy khả năng mọi việc rồi sẽ hỏng bét một cách vô phương cứu chữa. Có lẽ tôi đã dại dột động đến chuyên này. Tôi không phải là người thành đạt cho lắm nhưng tôi nghĩ mình đã từng là một người chồng trung thực, hiền lành. Không bao giờ kháng khăng đòi hỏi trong chuyện tình dục, tôi muốn tránh gây ra những chuyện lố lăng. Tôi không quan tâm đến vấn đề khiêu dâm. Tôi làm cho mình trở thành một con người hoàn toàn an toàn và bình thường - một nhân viên phòng thí nghiệm, chẳng phải là mối đe doạ cho một ai cả. Thế nhưng.
Tôi vẫy chào và trở vào trong xe.
Chẳng ai muốn là người kỳ dị. Tôi rất cẩn thận, luôn biết nhường nhịn. Trong cuộc đời, nhiều lúc, nhiều nơi tôi trở thành tê dại. Tôi không thể nói đó là chuyện gì và đã không dám thử. Bạn giải thích như thế nào về cái cảm giác trở thành một người không phù hợp? Tôi rút vào trong sự chính trực tỉnh táo, muốn làm vui lòng người khác. Chẳng dám liều lĩnh điều gì. Tôi tuân theo bản sơ phác của cuộc đời mình, cẩn thận trình diễn phần hình thức mà không có sự tin chắc, giống như một giám mục không thể thấy rằng tín ngưỡng của mình đã trở thành một công vụ.
Dù muốn dù không, tôi thường phải gặp rắc rối với điện. Đôi khi tôi hồi tỉnh trên sàn nhà lát đá trong sở làm, bên dưới các bồn rửa, dưới các chiếc ghế dài, nơi sực nức mùi agar và thuốc tẩy trùng, mùi formaldehyd, tất cả hoà trộn vào nhau như một thứ gì huyền bí phàm trần, và sự hồi tỉnh kéo theo một sự nhạt nhẽo u sầu, giống như nỗi buồn còn lại sau cuộc ái ân.
Tôi đã không hiểu được cách xử sự này. Tôi không có sự quan tâm đặc biệt nào với điện. Được cung cấp sẵn, nó là một sự hiện diện hiệu quả, sờ sờ trong một thế giới chối bỏ mọi sự hiện diện. Nó quả là một phút giây của cảm giác thực, giống như một cú đấm vào đầu. Nó làm cho tôi ngã nhào. Nó gây thương tổn ghê gớm nhưng nó là một thứ mà tôi có thể cảm nhận.
Trong phòng đợi của một nha sĩ, vào một năm nào tôi không nhớ rõ, tôi tình cờ nhìn thấy tấm hình của Bill Sanderson trên một tạp chí du lịch. Trông có vẻ như ông ta đang thống trị cả một vương quốc. Những tấm ván trượt tuyết, những trang phục leo núi - tất cả đều mang vẻ thanh lịch khác thường. Bài phỏng vấn có đề cập đến bà Eva vợ ông và đứa con trai Joseph của họ - một cái tên đạo dòng Mormon chính cống. Họ nói nhiều về những rủi ro theo cái nghĩa tài chính. Sando là một guru về đầu tư, một tay thuyết phục có tài. Nổi bật trên triền đồi Aspen, ông ta trông giống như con gấu nâu, một tay phong trần, một người nổi tiếng.
Chính mẹ tôi đã gởi cho tôi các mẩu tin cắt rời về Eva Sanderson. Tôi vẫn không biết vì sao bà làm thế. Cho đến lúc ấy tôi vẫn chưa đủ tin tưởng ở mẹ tôi để nghĩ rằng bà có thể thấy vui đôi chút khi gởi những tin tức ấy cho tôi. Nhưng cũng có thể bà chỉ nghĩ rằng tôi muốn biết, thế thôi.
Nếu không có những chi tiết hơi giật gân và sự liên hệ với số tài sản ở Utah thì có lẽ cái chết của Eva cũng chẳng được ai nói tới. Dù sao nó cũng chỉ chiếm khoảng hai inch trong một cột tin của Reuter. Eva được tìm thấy trong tình trạng treo cổ khoả thân phía sau một cánh cửa phòng tắm ở Portland, Oregon. Một nhân viên khách sạn, người E1 Salvador đã phát hiện ra nàng với một sợi đai quanh cổ. Người quá cố là khách ở một mình trong căn phòng năm sao, nguyên nhân của sự ngưng tim gây tử vong là do ngạt thở.
Chẳng có ai để tôi có thể nói chuyện ngoài mẹ tôi. Grace, vợ tôi, đã tìm thấy các mẩu tin này và muốn biết, một cách rất hợp lý, là chúng có ý nghĩa gì. Nhưng tôi không thể nói ra. Tôi không muốn liều lĩnh gây ra thật nhiều rắc rối nơi chính mình. Tôi đã dập tắt ngay câu chuyện. Với một cái giá khá đắt.
Không thể trách Grace về những gì đã xảy ra. Nàng chỉ muốn giữ gìn hạnh phúc gia đình mà thôi. Nàng phải nghĩ đến sự nghiệp của mình, và phải lo cho mấy đứa con. Và cuối cùng, tôi đã không tỏ ra xứng đáng. Không có gì để thắc mắc cả.
Sau đó tôi đã phải tự cấm cửa mình một dạo. Tôi chỉ cho phép mình ra ngoài để đi dự đám tang của mẹ tôi, một ngày đau khổ và khó quên. Tôi xem đám tang này như một lời nguyền về sự thất bại của mình, cũng như một sự tôn kính đối với cuộc đời người mẹ hiền dịu của tôi. Hai đứa con gái tôi đều có mặt. Chúng có vẻ vui mừng khi nhìn thấy tôi, và tôi không thể ngăn sự dè dặt ngoài ý muốn của chúng. Grace để người chồng mới của nàng ở nhà dù nàng chẳng cần phải làm thế. Tôi phải biết cư xử chứ. Nàng có vẻ buồn nhưng kiên quyết và rõ ràng là nàng bối rối khi nhìn thấy tôi như thế này. Khi ấy, tôi đã mang vài vết sẹo và đờ đẫn vì uống thuốc nhiều. Tôi thấy không hy vọng gì được quyền nuôi con khi nàng dẫn hai đứa con gái ra xe của nàng. Những người đưa đám quanh tôi đều dè dặt nhưng không lo sợ vì tôi chưa hề là một con người hung bạo. Có vẻ như hơi dị kỳ một chút thôi.
Tôi không trở lại bệnh viện làm việc nữa. Tôi bỏ ngang một cuộc hẹn. Tôi leo lên xe và chạy về hướng đông, cố đi thật xa bờ biển và thành phố này.
Khi tôi bước vào trong phòng thì thấy một người đàn ông cao lớn lêu khêu, suốt ngày mang theo bên mình một cuốn Thánh kinh. Ông ta có thói quen chăm chú lắng nghe những gì bạn nói khi làm công tác tập thể, rồi sau đó tiếp cận bạn bằng vài câu thơ và từ đó tán rộng ra. Tôi thấy ông ta nói chuyện cũng hấp dẫn, nhưng tôi chỉ muốn véo tai ông ta khi ông bảo với tôi rằng một người đàn ông dù chỉ tơ tưởng trong đầu về vợ người hàng xóm thì đã phạm tội ngoại tình rồi.
- Thôi đi, Desmond - Tôi nói - Đừng có nói dóc.
- Anh không thể bác bỏ điều đó!
- Ai ai cũng có quyền suy nghĩ, ước mơ. Nhưng hầu hết các ý tưởng ấy đều đến rồi đi mà không gây ra phiền phức cho ai cả.
Desmond lắc đầu. Tôi muốn nắm lấy tóc ông ta, nặn hết chất độc kia ra khỏi đầu ông. Muốn, nhưng không làm. Tôi bảo ông ta là con người tồi tệ và nguy hiểm, ông không nên nói những điều như thế, đặc biệt là với những con người nhạy cảm như chúng tôi đây. Tôi thật đáng trách vào lúc ấy, nhưng còn đủ minh mẫn để thấy rằng có cả một sự khác biệt lớn giữa nghĩ những điều gì và làm những điều ấy.
- Anh còn thiếu đạo đức căn bản - Ông ta dịu dàng nói.
- Ông gọi thế là đạo đức à? Tôi nói, cố gắng để không quát lên - Ông cho rằng người ta không biết phân biệt giữa những gì họ nghĩ và họ làm à?
- Chàng trai ơi, tôi nói như thế là vì tình thương mà thôi, Desmond nói. Anh đang bị vây hãm trong tội lỗi đó.
Những kiểu nói chuyện như thế khiến cho tôi sợ, bởi vì trong một lúc yếu mềm nào đó, mình có thể tin theo như thế. Tôi đã chán ngấy, buồn nản và bất cần, nhưng không muốn nhượng bộ sự đạo đức giả. Tôi từng là nạn nhân của những điều tin chắc sai lầm đầy rẫy cho nên tôi sợ lắm rồi. Có thể tin rằng khi một ý tưởng đến trong đầu bạn thì một hành động có thể sinh ra, và mình không thể cưỡng lại. Có vẻ như là sự suy nghĩ một điều gì đôi khi khiến cho điều đó xảy ra, khiến cho hành động ấy là một điều không thể tránh khỏi, thậm chí là cần thiết, cần phải nhắc nhở mình rằng sự thật không phải là thế.
- Bị vây hãm trong những tội lỗi - Desmond nói.
- Không - Tôi nói - Tôi là một nạn nhân tình nguyện.
Vì không tin rằng mình sẽ không tát vào mặt ông ta, cho nên điều tôi không nói ra là không một ai phải làm nô lệ cho những ý tưởng của mình - tức là bị vây hãm, tức là tội lỗi.
Tất cả những người có mặt ở đó đều nhìn vào Desmond và tôi, chờ đợi một sự to tiếng. Trong đám người quanh ta có những kẻ tin rằng trẻ con bị chết và thành phố ra tro là do những ý tưởng mà người ta có.
- Anh có thấy thèm khát vợ của người hàng xóm không? Người con gái với hai cánh tay đầy sẹo hỏi. Thật đấy, cô ta nói hài hước, nói cho em nghe đi.
- Tôi thèm vợ tôi. Vợ tôi giờ đây là vợ của người hàng xóm tôi. Và vợ của người hàng xóm tôi trước đây nay đã chết rồi.
- Kìa, thật là tầm bậy - Có người nói.
- Không có thèm khát à?
- Không thèm lắm - Tôi nói. Giờ đây thì không.
Loonie đã chết ở Mêhicô, nó bị bắn trong một quán bar ở Rosarito, không xa Tijuana. Một vụ buôn bán ma tuý đã kết thúc tai hại. Có thể là nó đã làm ăn với những viên cảnh sát xấu. Suốt nhiều năm trời, những câu chuyện ấy vẫn cứ tìm về với tôi, những điều nhìn thấy trên các bãi biển phía bắc của Sidney, ở Pêru, hay ở Mentawais. Danh tiếng gan dạ của nó vẫn còn lưu lại lâu dài. Nó lướt sóng tưng bừng, sống tưng bừng và dường như kiếm tiền cho những việc này bằng các thủ đoạn buôn lậu ma tuýế Người ta nói là nó đã nhiều lần mua đường đi tới tận Indastorysia và đã tiếp xúc với giới binh sĩ tại đây. Tôi băn khoăn về chuyện học nghề của nó với ông Sando, ngoài việc lướt sóng ra còn liên quan nhiều ít đến những chuyên khác nữa - những chuyến đi đến Thái Lan, những lần vắng mặt dài ngày không được giải thích, những tấm ván lướt sóng từ mọi nơi trên thế giới gởi về - và phải chăng tiền bạc của gia đình Sando đã được bổ sung bằng lợi tức của việc kinh doanh đen tối này?
Tôi thấy đau nhói khi được tin về Loonie. Tôi bị choáng váng như lúc nghe tin cái chết của Eva, nhưng còn cảm thấy một sự trống rỗng, giống như vừa đột ngột mất đi một cái gì trong tôi.
Từ một phòng điện thoại ở Wiluna, xung quanh là những kính vỡ và vết máu, tôi gọi cho Grace.
- Xin lỗi phải gọi cho em - Tôi nói
- Vâng, có lẽ anh đang buồn.
- Những người anh quen đều chết hết cả rồi. Hoặc đã đi xa rồi.
- Vậy anh định làm gì?
- Gác bỏ tất cả đằng sau - Tôi nói như một chính khách. Anh định gác bỏ lại đằng sau và tiếp tục đi tới.
Nàng gác máy cái rụp.
Tôi sống một thời gian với một tu sĩ hoàn tục. Ông ta nghiện rượu và là một người khôn ngoan nhưng có lúc tôi đã thù ghét ông ta. Tôi chỉ vào xin nước đổ vào cái két nước đang sôi sùng sục của chiếc xe tôi, nhưng ông ta thấy rằng đó không phải là sự hỏng hóc quan trọng nhất của tôi. Rõ ràng là không phải ông ta đánh mất sứ mệnh truyền giáo của mình vì việc giấu chùm chìa khoá xe của tôi suốt ba tuần lễ rồi mới cho tôi chui trở lại trong cái vỏ của mình.
Chúng tôi cùng sống bên cạnh một hồ nước mặn đã cạn, suốt ngày lăn tăn róc rách. Mặc dù khô nóng và nứt nẻ nhưng nó có vẻ luôn đầy nước. Sau khi tôi đã chữa xong chiếc xe và được ông ta trả chìa khoá lại, tôi vẫn còn ở lại đây một thời gian dài- tổng cộng là sáu tháng. Ông bạn già này nằm ngủ bên trong một cái cũi sắt, còn tôi thì trải mớ vật dụng của mình ra bên dưới trời sao lấp lánh ở chỗ lòng hồ đã khô. Ban ngày chúng tôi ngồi trong bóng râm lỗ chỗ của hàng hiên trong khi mọi thứ hiện ra rồi lại biến đi ở trước mặt mình. Chúng tôi cười nhìn cái ảo ảnh lung linh và cùng chung một nỗi hoài nghi. Vị tu sĩ này nói rằng suốt mười lăm năm qua ông chẳng động tới một giọt rượu, rằng ông đã vượt ra ngoài sự suy tưởng thần bí. Nhưng hồ nước mặn đã khiến cho ông sẵn sàng hành động. Và tôi đã hiểu điều ông muốn nói. Toàn những điều đáng kinh ngạc.
Tôi đã không lấy lại được sự bình tĩnh hoàn toàn. Tôi đã vượt qua một số ý niệm nhưng một phần trong tôi cứ lòng vòng trở lại, như đám ruồi nhặng, những ký ức, hay những vi thể hạ nguyên tử vì những lý do riêng của chúng cứ chực bay vòng trở lại như thế. Tôi đã góp nhặt từng tí từng tí một, và rồi tôi đã đúc kết được ít nhiều. Tôi tiếp tục đi tới và đã có một cuộc sống khác. Nói đúng hơn, tôi vẫn đi tới và vận dụng tối đa cuộc sống trước đây của mình.
Có một dạo, tôi e ngại sự xúc động. Nhưng tôi đã tìm cách để vượt qua điều đó. Tôi khám phá ra một việc thích hợp với mình, một việc mà tôi có thể làm lấy một mình. Tôi trở thành một nhân viên cấp cứu đắc lực. Khi có tai nạn xảy ra, tôi đến đó ngay, và mọi người vui mừng khi thấy tôi. Thấy bộ đồng phục thì họ đã tin tưởng và điều này làm cho tôi hạnh phúc. Mọi việc đã diễn ra trôi chảy, với sự hào hứng và lẹ làng.
Khi những đứa con tôi còn đi học, tôi thường ở bên cạnh chúng trong những dịp cuối tuần và nghỉ phép hàng năm, nhưng giờ đây chúng đã lớn thì tôi đi nhiều hơn. Tôi đến những nơi hoang dã lướt sóng, chèo bè, hay đi bộ việt dã. Tôi đã bay lướt lên trên những chiếc máy bay dãi nắng ở New Guinea và cưỡi sóng ở những bãi biển nơi mà đám cướp biển của Ollie North đổ bộ vũ khí. Tôi đã gặp nhiều con người tử tế, cả đàn ông và đàn bà.
Tôi xem mình như người độc thân, như vậy nghe có vẻ cao thượng, nhưng chủ yếu là cả một quá trình học để mà làm. Nó hơi giống với cuộc sống của người có gia đình, theo những gì nghe người ta nói.
Trong Thế vận hội năm 2002, một tay trượt tuyết trên không người úc đã đoạt một huy chương vàng và chỉ một sớm một chiều đã trở thành một anh hùng dân tộc của một đất nước phần nhiều không có tuyết. Cô gái tóc vàng xinh đẹp bỗng nhiên được chiếu trên truyền hình cả nước, cô ta quảng cáo cho ngũ cốc, cho kẹo bánh và cho đủ thứ trên đời. Tôi nghĩ đến Eva.
Gần đây hơn, tôi bước vào phòng đợi của sân bay, nơi có màn hình video cực lớn giới thiệu sơ lược về các môn thi đấu mùa đông ở Turin. Suốt khoảng mười phút, chúng tôi phải xem cảnh chiếu đi chiếu lại của một tay trượt tuyết trên không bị thất bại. Đường bay lượn cao và xoắn. Góc quay một phần tư quá xa. Có thể nhìn thấy thực tế phũ phàng về cái đầu gối bị dập của cô ta khi vừa tiếp đất. Chúng tôi có hình cận cảnh để khẳng định điều này, và có một cái gì đó nghe thật rùng rợn trong lời thuyết minh theo cùng đoạn phim. Những hành khách xung quanh tôi không bị kích động mấy. Họ đã hoá nhàm, và màn trượt tuyết trên dây căng cao này đã cũ rích. Nhưng kìa người con gái ấy đang lao nhanh xuống núi trong tư thế bật ngửa, cố giữ lấy cái chân mình. Tiếng kêu la. Lặp đi lặp lạiề Trông như cô ta buộc phải mãi mãi chỉ làm một việc tuột dốc, què lết khập khiễng chứ chẳng làm gì khác. Tôi phải đứng dậy, cầm lấy cái túi của mình rồi bỏ đi, cho khuất mắt khỏi công cuộc kinh doanh bi thảm đang diễn đi diễn lại nhiều lần ở trạm ga chót, cố giữ lấy sự bình tĩnh cho mình. Không phải là sự lặp lại của cơn ác mộng này khiến tôi nhớ đến Eva - nó đã là ký ức của cái tôi ngày trước - và hình chiếu chậm là một minh hoạ cho các cách thức làm việc của đầu óc tôi suốt một thời gian dài.
Có vẻ như chẳng có cái gì đáng sợ trong cuộc đời ngoài chính cái sợ. Đây là một kiểu nói dóc trong các quán rượu, ở nơi chuyển giao của trạm cứu thương. Quả thật là người ta đã nói nhiều về cái sợ. Cùng với những câu chuyện phiếm về các nhân vật nổi tiếng, sự giảm cân và các mức thưởng.
Không ai muốn mình là người sợ sệt. Chẳng trách họ được. Phát triển dựa trên sự liều lĩnh là điều tệ hại - trừ khi bạn đang làm kinh doanh. Những nhà lãnh thầu là những con người gan dạ, nhưng người nhảy từ trên cao xuống là những tay liều. Những thuỷ thủ đơn độc là sự lãng phí tài nguyên cứu nạn, và những người trượt tuyết nhảy từ trên trực thăng xuống là những con lừa tự sát. Những phóng viên chiến trường, như chúng ta biết, là những con người khiến ta ghê sợ. Một số chuyện liều có vẻ như vượt quá sự khâm phục. Trong khi đó thì gần như ai ai cũng đều lo sợ rằng chuyện này là thế, cho dù cuộc đời có như thế nào. Kiểu sợ này - giống như bệnh đau răng - có thể thích ứng được. Phải, phần nhiều là thế.
Đó là thứ chuyện tôi đã nghiền ngẫm nhiều lần trong góc một căn phòng nhỏ trong khi bọn trẻ còn đang xem chương trình Thần tượng và trắc nghiệm những người mà chúng yêu thích. Đó là cách tôi lấp kín thời gian khi chẳng có chuyện gì làm. Suy nghĩ mông lung, bỡn cợt với sầu muộn.
Nhưng khi có người gọi đến thì tôi ra đi, tươi cười nhưng lo ngại - và phấn khích như một con chó lên cơn.
Kinh nghiệm rút ra được trong cuộc chơi của chúng tôi là các nhân viên cấp cứu có thể là những thiên thần hoặc những cao bồi và có vẻ như tôi là một ví dụ sống của nhóm người sau. Phần nhiều tôi không bị phiền phức. Tôi làm việc với những con người mất trí hoặc sắp mất trí cho nên tôi thường cảm thấy thoải mái và quen thuộc.
Tôi đang làm một công việc hữu ích. Khi xe cấp cứu hụ còi thì tôi sẵn sàng có mặt; tôi làm hết sức mình. Tôi được giao một nhiệm vụ xung yếu, nhưng bên trong đó còn có một nơi yên vắng, tĩnh lặng như là tâm bão. Tôi yêu cái uy tín tu sĩ của bộ sắc phục, chiếc xe và đèn chớp, sự đảm bảo mà chúng đem lại cho những con người chúng tôi sắp đến. Khi những thường dân trông thấy bộ sắc phục và cái túi cấp cứu thì họ yên tâm tin tưởng phần nào, và trong khi chúng tôi làm việc thì niềm tin của tôi và của họ gặp nhau. Tôi đến đây để cứu vãn, để cải thiện những gì tồi tệ và để làm điều lành.
Có những khi mình làm được việc và có những khi không được. Có những đêm như đêm vừa rồi, khi tôi đến nơi thì đã quá muộn, và chỉ biết cầm lấy bàn tay nạn nhân. Tôi cố gắng để không qui trách hẳn chuyện đó cho riêng mình nhưng nó cứ ám ảnh mãi, chuyến đi ra vùng ngoại ô hôm ấy. Giống như một cơn gió quá khứ thổi về, giống như một khung cửa được đẩy sang một bên. Tôi đã nhìn thấy rõ điểm khác biệt giữa vụ tự tử của một đứa trẻ tuổi mới lớn và một sự tự tin tai hại. Tôi biết một đứa bé trông thế nào khi nó chơi trò thắt cổ.
Tôi thổi chiếc ống didj cho đến khi rát cổ, tê môi; cho đến khi một vài phụ nữ đi qua chìa một ngón tay khinh thị.
Mỗi năm tôi dành ra vài tuần để lái xe về phương nam, đến Sawyer với thành ý tìm lại ngôi nhà ngày ấy. Nhà máy cưa đã không còn nữa, bãi nhốt gia súc đã được trồng nho. Thành phố ngày nay nhan nhản những nhà nấu rượu và những quán rượu xềnh xoàng có cả chỗ ăn chỗ ngủ. Một cặp đồng tính chế biến phô mai trong ngôi nhà kế cận. Họ giống như một màn trình diễn giúp vui và là láng giềng tốt của nhau.
Tôi chẳng gặp một người quen nào, ngoài ông Slipper trong số những người dân Angelus táo bạo thỉnh thoảng chèo chiếc xuồng dài surfski ra tận Mũi đất. Ngôi nhà của Sando và Eva đã không còn nữa và miếng đất này đã bị chia năm xẻ bảy. Các luật sư cùng các kiến trúc sư từ trong thành phố đã ra đây xây cất những nhà nghỉ cuối tuần lòe loẹt trên khắp vùng đất này.
Tấm ván Brewer cũ vẫn còn thấy trong nhà kho của cha tôi. Từ ngày tôi để lạc mất nó ở Old Smoky đến nay chẳng có ai dùng đến nó cả. Ngày nay, nơi vỉa đá ngầm ngoài kia, các tay lướt ván được các jetski kéo theo đằng sau ngọn sóng. Có thể tưởng tượng tiếng ồn và mùi dầu xăng ở đây. Vịnh Barney vẫn còn có người lướt sóng nhưng không thường xuyên. Con cá voi trắng lớn cư ngụ nơi đây dường như vẫn còn, và nó đã được bảo vệ theo qui chế các chủng loài bị đe doạ. Theo tôi được biết thì bãi Nautilus vẫn chưa được thế hệ sau này khám phá.
Tôi chẳng bao giờ làm được gì nhiều cho quê nhà khi tôi còn ở Sawyer. Thời gian thật quý giá. Tôi có một cỗ máy thực sự cũ kỹ, từ thời những năm sáu mươi. Tôi lắp nó vào trong chiếc xe đa dụng, chạy xuống tới Mũi đất, rồi tôi chèo ngang qua đám người lướt sóng ván cụt để bắt lấy những con sóng đợt hai.
Tôi đến đây không phải để chứng tỏ một điều gì - đã gần năm mươi rồi. Tôi bị viêm khớp và đau vai, nhưng tôi vẫn còn giữ được ít nhiều phong độ. Tôi trượt xuôi theo những bức tường nước xanh rờn đi vào trong vịnh để cảm nhận trở lại những cảm giác lúc đầu của mình, những thứ mà mình đã để mất đi quá nhanh và quá lâu, đó là đà phóng ngọt ngào, lực xoay ở dưới bàn chân và những giây phút xuất thần hiếm hoi ngắn ngủi. Tôi đang khiêu vũ theo cách của những người đàn ông khiêu vũ dưới phố bốn mươi năm về trước.
Những đứa con tôi thỉnh thoảng về ở với tôi. Có khi chúng dẫn cả bạn trai của chúng về nữa, tôi không thấy gì phiền phức. Tôi dọn dẹp ngôi nhà cả tuần lễ trước khi chúng về. Chúng đã từng chứng kiến sự hỗn độn lúc đầu cho nên giờ đây chúng sẽ thấy được giá trị của sự trật tự. Tôi nghĩ là công việc đang làm của tôi khiến chúng yên tâm, tôi muốn cho chúng thấy rằng tôi đang có một mục đích trong cuộc đời. Công việc này và thu nhập của nó giúp tôi tự lo cho mình được. Tôi cần cù với công việc của mìnhề Vì đối với chúng, điều quan trọng là chúng phải biết rằng tôi không phải là con người vô dụng. Tôi nghĩ chúng đã biết việc lái chiếc xe ngựa khó như thế nào, tôi đã cứu được những mạng người và cố làm một người tử tế. Tôi đã cố hết sức để giải thích những điều rắc rối mà không cần đến sự cộc cằn. Giờ đây chúng đã trưởng thành, nhưng tôi hãy còn minh mẫn, cẩn thận để không gây sự ngạc nhiên, bởi đã từng có quá nhiều tai hoạ, quá nhiều nhục nhã.
Thời điểm yêu thích nhất của tôi là khi mấy cha con tôi cùng ra Mũi đất, vì khi chúng nhìn thấy tôi băng ra vùng nước thì tôi chẳng cần phải e dè và chẳng bao giờ thấy xấu hổ. Ở ngoài khơi này, tôi được tự do. Tôi không cần phải ứng phó. Có lẽ chúng không hiểu được điều này, nhưng điều quan trọng đối với tôi là làm cho chúng thấy rằng cha của chúng là một con người luôn hoạt động - cứu nhiều sinh mạng và chuyên chở những người bị thương, phải, nhưng cũng biết làm một điều gì đó hoàn toàn vô nghĩa mà đẹp đẽ và ít ra trong việc này, tôi chẳng cần gì phải giải thích.