Chương : 11
Nhà hình sự học là một con người của thời kỳ Phục Hưng.
Anh ta phải có kiến thức về thực vật học, địa lý, đạn đạo học, y học, hóa học, văn học và nghề kỹ sư. Nếu anh ta hiểu thực tế – ví dụ như tàn tro có chứa nhiều stronti có thể phát tích từ các đám cháy trên đường cao tốc, rằng faca trong tiếng Bố Đào Nha có nghĩa là “con dao” và những người Ethiopia khi ăn tối không dùng dụng cụ ăn mà chỉ dùng tay phải, rằng viên đạn với vết xẻ nòng kiểu lốm đốm, xoay bên phải, không thể được bắn ra từ một khẩu súng ngắn Colt – nếu anh ta biết được những điều đó, anh ta có thể đưa ra những liên kết đặt nghi phạm vào hiện trường vụ án.
Một lĩnh vực mà tất cả các nhà hình sự học đều biết là giải phẫu. Và đó chắc chắn là chuyên môn của Lincoln Rhyme, vì anh đã giành ba năm rưỡi để tìm hiểu về logic quanh co của xương và dây thần kinh.
Lúc này anh đang nhìn túi vật chứng lấy được từ phòng nồi hơi mà Jerry Banks đang đung đưa trên tay và tuyên bố: “Xương chân. Không phải xương người. Vì thế không phải của nạn nhân tiếp sau.”
Đó là một vòng xương đường kính khoảng hai inch, bị cưa đều đặn. Trên những đường cưa do lưỡi cưa để lại vẫn còn vết máu.
“Một con thú cỡ vừa”, Rhyme tiếp tục. “Một con chó lớn, hay cừu, dê. Tôi đoán là cái xương này có thể đỡ khối lượng khoảng một trăm pound. Tuy vậy cứ thử để chắc chắn đó là máu động vật. Vì nó vẫn có thể là máu nạn nhân.”
Đã có những tên tội phạm dùng xương để đánh hay đâm chết nạn nhân. Bản thân Rhyme đã gặp ba trường hợp tương tự; vũ khí được dùng là xương đầu gối bò, một cái xương chân hươu và trong một trường hợp khó chịu lại chính là xương khuỷu tay của nạn nhân.
Mel Cooper thực hiện phép thử thẩm thấu gel để tìm nguồn gốc máu. “Chúng ta phải đợi một lúc mới có kết quả”, anh ta giải thích, vẻ có lỗi.
“Amelia”, Rhyme nói, “chắc cô giúp được chúng tôi. Hãy dùng kính lúp và xem xét thật kỹ cái xương. Nói xem cô thấy gì?”.
“Không phải kính hiển vi à?” Cô hỏi. Anh nghĩ cô sẽ phản đối nhưng cô lại đi tới chỗ cái xương, tò mò nhìn nó.
“Phóng đại nhiều quá”, Rhyme giải thích.
Cô đeo kính lên và cúi xuống cái khay tráng men màu trắng. Cooper bật cây đèn hình cổ ngỗng lên.
“Những vết cắt”, Rhyme nói. “Chúng mấp mô hay phẳng?”
“Chúng khá là phẳng.”
“Một cái cưa khỏe.”
Rhyme băn khoăn không biết con thú có còn sống khi hắn làm việc đó hay không.
“Cô thấy gì bất thường không?”
Cô nhìn chăm chăm một lúc vào cái xương, nói nhỏ: “Tôi không biết. Tôi không nghĩ thế. Nó trông chỉ giống như một khúc xương bình thường.”
Chính lúc đó Thom đi ngang qua và nhìn vào cái khay. “Đó là dấu vết của các vị à? Buồn cười thật.”
“Buồn cười”, Rhyme nói. “Buồn cười?”
Sellitto hỏi: “Anh có ý kiến gì chăng?”
“Chẳng có ý kiến gì.” Anh ta cúi xuống ngửi khúc xương. “Đây là osso bucco.”
“Cái gì?”
“Chân bê. Tôi đã nấu món này cho anh một lần rồi, Lincoln. Món osso bucco. Món chân bê om.” Anh ta nhìn Sachs và nhăn mặt. “Anh ta chê nó nhạt.”
“Mẹ kiếp.” Sellitto kêu to. “Hắn mua cái này ở cửa hàng thực phẩm!”
“Nếu ta may mắn thì...”, Rhyme nói, “hắn mua nó ở cửa hàng thực phẩm của hắn”.
Cooper khẳng định phép thử kết tủa cho thấy âm tính với máu người trên mẫu được Sachs đem về. “Có thể đó là máu bò”, anh ta nói.
“Nhưng hắn định nói gì với chúng ta nhỉ?” Banks hỏi.
Rhyme không biết. “Hãy tiếp tục đi. À, có gì trên khóa móc và xích không?”
Cooper nhìn vật nằm trong cái túi nhựa giòn. “Giờ không còn ai khắc tên nhãn hiệu lên xích nữa. Như vậy ở đây ta không may mắn rồi. Cái khóa này là loại hàng trung bình của Secure-Pro. Nó không an toàn lắm và chắc chắn không phải loại chuyên nghiệp. Phải mất bao lâu để phá nó?”
“Mất ba giây”, Sellitto nói.
“Thấy chưa. Không có số thứ tự. Người ta bán nó ở tất cả các cửa hàng kim khí trên cả nước.”
“Khóa chìa hay khóa số?” Rhyme hỏi.
“Khóa số.”
“Gọi cho nhà sản xuất. Hỏi họ xem nếu ta tháo tung nó ra rồi khôi phục lại tổ hợp số từ lẫy khóa, điều đó có cho ta biết được nó nằm trong đợt hàng nào và đi đến đâu không?”
Banks huýt sáo. “Ôi giời, xa quá.”
Cái nhìn của Rhyme làm mặt anh chàng đỏ lựng. “Sự nhiệt tình trong giọng nói của anh cho thấy, thưa thám tử, anh đúng là người phù hợp để làm việc đó.”
“Vâng, thưa ngài.” Chàng trai trẻ tuổi nhấc điện thoại di động. “Tôi làm đây.”
Rhyme hỏi: “Có vết máu trên xích không?”
Sellitto nói: “Của một trong những người của ta. Anh ta tự làm mình bị thương khá nặng lúc phá khóa.”
“Như vậy là nó đã bị ô nhiễm.” Rhyme cau có.
“Anh ta cố cứu cô ấy thôi”, Sachs nói với Rhyme.
“Tôi hiểu. Anh ta rất tốt bụng. Nhưng nó vẫn bị ô nhiễm rồi.” Rhyme nhìn lại về phía cái bàn cạnh Cooper. “Dấu tay?”
Cooper nói anh ta đã kiểm tra và chỉ thấy mỗi dấu vân tay của Sellitto trên dây xích.
“Được rồi, mẩu gỗ Amelia tìm được. Kiểm tra dấu tay xem.”
“Tôi làm rồi”, Sachs nói nhanh. “Tại hiện trường.”
P.D., Rhyme nhớ lại. Cô nàng không có vẻ giống như biệt hiệu. Những người đẹp ít khi thế.
“Hãy thử vũ khí hạng nặng xem, để cho chắc chắn”, Rhyme nói và ra lệnh cho Cooper. “Dùng DFO hoặc ninhydrin. Sau đó chiếu nit-yag.”
“Cái gì?” Banks hỏi.
“Tia laser neodymium:yttrium aluminum garnet.”
Kỹ thuật viên làm mẩu gỗ sủi bọt bằng một thứ chát lỏng từ lọ xịt nhựa và chiếu tia laser lên đó. Anh ta đeo kính và xem xét nó một cách cẩn trọng. “Không có gì.”
Anh ta tắt đèn và xem xét cẩn thận miếng gỗ. Nó là một miếng gỗ dài khoảng sáu inch, màu tối. Trên đó có một vết bẩn, giống như nhựa đường và bị dính đầy bụi. Anh ta cầm nó bằng một cái kẹp.
“Tôi biết Lincoln thích dùng đũa”, Cooper nói. “Nhưng khi đến Ming Wa[72] tôi luôn gọi dĩa.”
“Anh có thể làm vỡ tế bào”, nhà hình sự học càu nhàu.
“Tôi có thể. Nhưng tôi không làm vỡ”, Cooper đáp lời.
“Loại gỗ gì?” Rhyme băn khoăn. “Có cần chạy máy phân tích tàn tro không?”
“Không cần, đó là gỗ sồi. Chắc chắn thế.”
“Có dấu cưa hay bào gì không?” Rhyme vươn người ra trước. Bất ngờ cổ anh bị co thắt, không thể chịu đựng nổi những cơn đau cơ vì chuột rút. Anh hổn hển, nhắm mắt và xoay cổ, cố gắng kéo dãn cơ. Anh cảm thấy bàn tay mạnh mẽ của Thom xoa bóp vùng cổ. Cuối cùng thì cơn đau cũng bớt.
“Lincoln?” Sellitto hỏi. “Anh ổn chứ?”
Rhyme thở sâu: “Tốt rồi. Không có gì đâu.”
“Đây này.” Cooper đem khúc gỗ lại phía giường, đeo kính phóng đại lên mắt cho Rhyme.
Rhyme kiểm tra mẫu vật. “Bị cắt theo hướng của thớ gỗ bằng cưa khung. Vết cắt rất không đều. Vì thế tôi đoán đây là một cây cột hay xà nhà được xẻ hơn một trăm năm trước. Có lẽ là cưa hơi nước. Đưa nó lại gần hơn một chút đi, Mel. Tôi muốn ngửi nó.”
Anh ta để mẩu gỗ dưới mũi Rhyme.
“Có tẩm creozot – dung dịch than-nhựa đường. Dùng để bảo vệ gỗ trước khi các công ty xẻ gỗ xử lý áp suất. Làm cầu tàu, ụ tàu, tà vẹt…”
“Có thể lại có kẻ hâm mộ đường sắt”, Sellitto nói. “Hãy nhớ đến đường ray sáng nay.”
“Có thể”, Rhyme ra lệnh. “Kiểm tra ép tế bào đi, Mel.”
Anh ta dùng kính hiển vi xem xét mẩu gỗ. “Nó được ép rất tốt. Nhưng ép dọc theo thớ. Không phải ngược lại. Không phải tà vẹt. Đấy là cột chống hay cọc đỡ. Mang trọng lượng…”
Một khúc xương… một cái cột gỗ cũ…
“Tôi thấy trong gỗ có bụi. Điều đó có nói với chúng ta thứ gì không?”
Cooper trải một tờ báo lớn lên bàn, xé bìa đi. Anh ta cầm mẩu gỗ trên tờ báo và chải một ít bụi từ khe nứt trên mẩu gỗ. Anh ta xem xét những chấm nhỏ trên tờ giấy trắng – một chòm sao ngược.
“Anh có đủ để thử biến thiên mật độ không?” Rhyme hỏi.
Trong phép thử biến nhiệt mật độ, bụi được đổ vào một cái ống chứa những chất lỏng có trọng lượng riêng xác định, khác nhau. Đất sẽ phân rã ra và mỗi hạt sẽ lơ lửng ở lớp chất lỏng có trọng lượng riêng tương ứng. Rhyme đã thiết lập một thư viện rất đầy đủ hồ sơ biến thiên mật độ của đất từ cả năm khu. Không may là phép thử này chỉ có tác dụng khi ta có đủ một lượng đất nhất định; Cooper không nghĩ rằng họ có đủ đất. “Ta có thể sử nhưng sẽ phải dùng tất cả mẫu. Và nếu nó không có tác dụng, ta chẳng còn gì cho các phép thử khác.”
Rhyme bảo anh ta xem xét bằng mắt thường trước rồi phân tích nó trên GC-MS.
Tay kỹ thuật viên chải một ít đất vào bàn trượt. Anh ta nhìn nó vài phút qua kính hiển vi. “Lạ thật, Lincoln. Đó là đất bề mặt. Với mức độ thực vật cao bất thường. Nhưng dưới dạng rất lạ. Bị thối rữa và phân hủy rất nặng.” Anh ta ngẩng lên và Rhyme nhận thấy những vệt màu đen phía dưới mắt anh ta vì tỳ vào ống ngắm. Anh nhớ rằng sau nhiều giờ làm việc trong phòng thí nghiệm, những vệt đen này nổi lên khá rõ và một kỹ thuật viên giám định thường ra khỏi phòng thí nghiệm ở IRD để được chào đón với dàn hợp xướng Rocky Raccoon[73].
“Đốt nó lên”, Rhyme ra lệnh.
Cooper đặt một mẫu vào thiết bị GC-MS. Cái máy rùng rùng sống dậy và phát ra tiếng xì xì. “Đợi một, hai phút.”
“Trong khi ta chờ”, Rhyme nói, “cái xương… tôi vẫn băn khoăn về cái xương. Soi nó bằng kính hiển vi xem nào, Mel”.
Copper cẩn thận đặt khúc xương vào dưới kính hiển vi. Anh ta nghiên cứu nó rất kỹ càng. “Ồ, có thứ gì đây này.”
“Cái gì?”
“Rất nhỏ. Trong suốt. Đưa cho tôi cái kẹp cầm máu”, Cooper nói với Sachs, hất đầu về phía một cái kẹp bấm. Cô đưa nó cho anh ta và anh ta cẩn trọng tìm kiếm trong phần tủy của khúc xương. Anh ta nhặt thứ gì đó lên.
“Một mẫu cellulose tái chế”, Cooper tuyên bố.
“Là giấy bóng kính”, Rhyme nói. “Cho tôi biết thêm đi.”
“Có dấu bị kéo và giật. Tôi có thể nói hắn ta không cố tình để nó lại; không có cạnh nào bị cắt. Nó không mâu thuẫn với giấy bóng kính bền”, Cooper nói.
“Không mâu thuẫn.” Rhyme cau có. “Tôi không thích kiểu phòng vệ của hắn.”
“Chúng ta phải phòng vệ, Rhyme.” Cooper tươi tỉnh nói.
“Liên quan đến. Khuyến nghị. Tôi đặc biệt ghét không mâu thuẫn.”
“Rất nhiều khả năng”, Cooper nói. “Khả năng gần nhất của tôi là giấy bóng kính ở cửa hàng thịt hay cửa hàng thực phẩm. Không phải Saran Wrap. Chắc chắn không phải giấy gói của một thương hiệu vô danh.”
Jerry Banks từ hàng lang đi vào phòng. “Tin xấu. Công ty Secure-Pro không giữ hồ sơ nào về các tổ hợp mã khóa. Máy móc thiết lập ra chúng ngẫu nhiên.”
“À.”
“Nhưng điều thú vị là họ nói họ thường xuyên nhận được các cuộc gọi của cảnh sát về sản phẩm của họ và anh là người đầu tiên nghĩ tới việc truy tìm ổ khóa qua tổ hợp mã.”
“Có thể thú vị đến đâu nếu như đó là ngõ cụt?” Rhyme càu nhàu và quay về phía Mel Cooper, anh ta đang lắc đầu khi nhìn vào máy tính của GC-MS. “Gì thế?”
“Có kết quả phân tích đất rồi. Nhưng tôi sợ là máy có thể phải sửa. Quá nhiều nitrogen. Ta phải thử lại lần nữa, chắc lần này phải dùng nhiều mẫu hơn.”
Rhyme bảo anh ta làm. Ánh mắt anh quay lại phía khúc xương. “Mel, con vật bị giết lâu chưa?”
Mel xem xét vài mảnh nhỏ dưới kính hiển vi điện tử.
“Có rất ít các nhóm vi khuẩn. Cậu Bambi này chắc mới bị thịt, có lẽ thế. Hay mới được lấy ra khỏi tủ lạnh khoảng tám tiếng.”
“Như thế là hắn mới mua nó”, Rhyme nói.
“Hoặc tháng trước và làm đông lạnh nó”, Sellitto đề xuất.
“Không”, Cooper nói. “Nó không bị đông lạnh. Không có vết biểu bì bị tinh thể băng phá hoại. Và nó không ở trong tủ lạnh quá lâu. Không bị khô; tủ lạnh hiện đại làm thức ăn bị khô.”
“Dấu vết tốt đấy”, Rhyme nói. “Hãy điều tra thêm một chút đi.”
“Điều tra thêm?” Sachs cười. “Ý anh nói là chúng ta sẽ gọi điện cho tất cả các cửa hàng thực phẩm trong thành phố để hỏi ngày hôm qua có ai bán xương bê không à?”
“Không”, Rhyme nói. “Mà là trong hai ngày qua.”
“Anh có cần gọi Những Chàng trai Dũng cảm không?”
“Cứ để họ làm việc của họ. Gọi Emma, ở trung tâm, xem cô ấy còn làm việc không? Và nếu không, gọi cô ấy quay lại văn phòng cùng với những điều phối viên khác để họ làm ngoài giờ. Đưa cho cô ấy danh sách tất cả các cửa hàng thực phẩm trong thành phố. Tôi cá là anh chàng của chúng ta không mua thực phẩm cho gia đình bốn người, vì thế nói với Emma giới hạn danh sách xuống những người chỉ mua dưới năm thứ.”
“Lệnh bắt?” Banks hỏi.
“Hễ có ai đó giật mình, ta sẽ có lệnh bắt”, Sellitto nói. “Nhưng cứ thử không có lệnh trước. Ai biết được? Vài công dân có thể thực sự cộng tác. Người ta nói với tôi là, đôi khi điều đó có xảy ra.”
“Nhưng làm sao các cửa hàng biết được ai đã mua chân bê?” Sachs hỏi. Cô không còn lơ đãng như trước. Trong giọng nói của cô đã có chút góc cạnh. Rhyme tự hỏi liệu sự khó chịu của cô có phải là triệu chứng của điều mà chính anh đôi khi cũng tự cảm thấy – gánh nặng của bằng chứng. Vấn đề cốt yếu với các nhà hình sự học không phải là có quá ít bằng chứng mà là quá nhiều.
“Kiểm tra máy quét”, Rhyme nói. “Họ đăng ký giao dịch bán hàng trên máy tính. Để kiểm kê và mua thêm hàng. Banks, nói đi. Tôi thấy hình như có điều gì đó trong đầu cậu? Nói ra đi. Lần này tôi không đẩy cậu đi Siberia nữa đâu.”
“Thôi được, chỉ có các cửa hàng nằm trong cùng một chuỗi mới có máy quét, thưa ngài”, viên thám tử trẻ tuổi nói. “Có hàng trăm cửa hàng riêng lẻ và hàng thịt không có máy quét.”
“Ý hay. Nhưng tôi nghĩ hắn sẽ không đến một cửa hàng nhỏ. Hắn sẽ mua ở những cửa hàng lớn. Phi cá nhân.”
Sellitto gọi điện cho Phòng Truyền thông và nói với Emma những gì họ cần làm.
“Hãy chụp phân cực mẩu giấy bóng kính này xem”, Rhyme nói với Cooper.
Người kỹ thuật viên đặt mẫu nhỏ này vào kính phân cực, sau đó đặt máy ảnh Polaroid vào ống ngắm và chụp ảnh. Đó là một tấm ảnh màu, một chiếc cầu vồng với một vạch sáng màu xuyên qua. Rhyme nghiên cứu tấm ảnh. Hình mẫu đó chẳng nói lên điều gì với họ, nhưng có thể so sánh nó với các mẫu giấy bóng kính khác để xem chúng có cùng một nguồn gốc hay không.
Rhyme nảy ra một ý nghĩ. “Lon gọi vài sỹ quan ESU đến đây. Khẩn trương.”
“Tới đây?” Sellitto hỏi.
“Chúng ta sẽ chuẩn bị một chiến dịch.”
“Anh chắc chứ?” Viên thám tử hỏi.
“Đúng thế! Tôi cần họ ngay.”
“Được rồi.” Anh ta gật đầu với Banks, người gọi điện cho Haumann.
“Còn bây giờ những dấu vết để lại khác thì sao – mấy sợi lông mà Amelia tìm thấy.”
Cooper đào bới chúng bằng cái que thăm sau đó đưa vài sợi lên kính hiển vi đối pha. Công cụ này chiếu hai nguồn ánh sáng vào một đối tượng, luồng ánh sáng thứ hai được chiếu muộn hơn một chút – lệch pha – sao cho mẫu vừa được chiếu sáng, vừa có bóng tối.
“Không phải của người”, Cooper nói. “Tôi có thể nói ngay với anh như vậy. Hơn nữa đây là lông bảo vệ, không phải lông phía dưới.”
Ý anh ta là nó từ bộ lông của động vật.
“Con gì? Chó?”
“Con bê?” Banks đề xuất, một lần nữa đầy sự nhiệt tình và trẻ trung.
“Kiểm tra vảy”, Rhyme ra lệnh. Ý anh là những vảy nhỏ tạo thành lớp vỏ ngoài sợi lông.
Cooper gõ bàn phím máy tính và mấy giây sau hình ảnh những cái que nhỏ đầy vảy hiện ra trên màn hình. “Nhờ anh đấy, Lincoln. Nhớ cơ sở dữ liệu không?”
Ở IRD, Rhyme đã tập hợp một bộ sưu tập khổng lồ những bức vi ảnh các loại lông khác nhau. “Nhớ chứ, Mel. Nhưng lần cuối cùng tôi nhìn thấy chúng là trong cặp hồ sơ cơ mà, làm thế nào mà anh cho chúng vào máy tính được?”
“Tất nhiên là nhờ scan rồi. Nén dưới dạng JPEG.”
Jay-peg? Cái quái gì thế nhỉ? Chỉ trong vài năm công nghệ đã vượt qua Rhyme. Thật lạ lùng...
Khi Cooper xem xét các bức ảnh, Lincoln Rhyme lại băn khoăn về điều anh đã băn khoăn cả ngày – câu hỏi cứ hiện lên: Vì sao lại có những dấu vết? Con người thật tuyệt vời nhưng trên hết đó chỉ là – một con thú. Một con thú biết cười, nguy hiểm, thông minh và hoảng sợ nhưng luôn luôn hành động có lý do – một động cơ đẩy con thú đến với dục vọng của nó. Nhà khoa học Lincoln Rhyme không tin vào sự tình cờ, hay sự ngẫu nhiên, hay thiếu chứng cứ. Ngay cả kẻ điên cũng có logic của họ, bất kể nó có rối rắm đến đâu, và anh biết phải có lý do gì đó để Đối tượng 823 nói chuyện với họ bằng cách thức khó hiểu như vậy.
Cooper gọi: “Có rồi. Loài gặm nhấm. Có thể là chuột. Hơn nữa lông bị cạo.”
“Dấu vết kiểu gì vậy?” Banks nói. “Có hàng triệu con chuột trong thành phố. Nó không dẫn tới chỗ nào cả. Hắn định nói gì với chúng ta vậy?”
Sellitto nhắm mắt một khắc và lẩm bẩm điều gì đó trong hơi thở. Sachs không nhận thấy cái gì đó. Cô đang tò mò liếc nhìn Rhyme. Anh ta ngạc nhiên là cô không nhận ra thông điệp của kẻ bắt cóc là gì nhưng anh ta không nói gì. Anh thấy không có lý do gì phải chia sẻ phần kiến thức kinh hoàng đó với bất kỳ ai vào lúc này.
Nạn nhân thứ bảy của James Schneider, hoặc thứ tám, nếu hắn nhớ không nhầm, trong số đó có thiên thần nhỏ bé O’Connor, là vợ của một người nhập cư cần cù, người đã xây một căn nhà giản dị gần Phố Hester, bên khu Lower East Side của thành phố.
Chính nhờ sự dũng cảm của người phụ nữ không may mắn này mà cảnh sát phát hiện ra nhân dạng của tên tội phạm. Hanna Goldschmidt có dòng máu Đức – Do Thái và được kính trọng trong một cộng đồng gần gũi ở đó cô, chồng cô và sáu đứa con nhỏ của họ (một đứa đã mất khi sinh) sinh sống.
Kẻ Tầm Xương chậm rãi lái xe qua những con phố, cẩn thận tuân theo biển hạn chế tốc độ dù hắn biết chắc chắn rằng cảnh sát giao thông New York không chặn ai lại vì một lý do nhỏ như lái xe vượt quá tốc độ.
Hắn dừng lại ở đèn hiệu giao thông và nhìn lên một tấm bảng dán thông cáo của Liên Hợp Quốc khác. Mắt hắn nhìn thấy những khuôn mặt tươi cười, nhạt nhẽo – như những khuôn mặt ghê sợ được vẽ trên tường của khu nhà lớn – rồi nhìn ra xa, thành phố quanh hắn. Đôi khi hắn thấy ngạc nhiên khi nhìn lên và thấy những tòa nhà thật to lớn, những mái đua bằng đá thật cao, kính thật phẳng, những chiếc xe thật đẹp và con người thật tầm thường. Thành phố mà hắn biết tăm tối, thấp tịt, khói mù, bốc mùi mồ hôi và bùn đất. Ngựa có thể giẫm lên người ta, những băng nhóm lưu manh có ở khắp nơi – một số tên chỉ mới mười hay mười một tuổi – có thể đập đầu ta bằng gậy rồi bỏ đi với đồng hồ và ví tiền của ta... đó chính là thành phố của Kẻ Tầm Xương.
Đôi khi hắn thấy mình trong tình trạng này – lái chiếc xe Taurus XL màu bạc thật bảnh của mình trên con đường nhựa êm ái nghe đài WNYC[74] và thấy khó chịu, như tất cả người New York khác, khi hụt đèn xanh, băn khoăn vì cái lý do quái gì mà thành phố không cho ta rẽ phải khi có đèn đỏ.
Hắn nghiêng đầu và nghe mấy tiếng đập vọng ra từ cốp xe. Nhưng tiếng ồn bên ngoài lớn tới nức không ai có thể nghe thấy sự chống cự của Hanna.
Đèn xanh.
Tất nhiên đó là một sự kiện đặc biệt ngay cả trong thời kỳ đã thoát khỏi những thành kiến, phụ nữ được phiêu lưu trên phố vào buổi tối, không có quý ông đi kèm; và ngày nay thì điều này còn đặc biệt hơn nữa. Nhưng vào cái đêm không may mắn ấy, Hanna không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt buộc phải rời nơi ở của mình trong chốc lát. Đứa con út của cô bị sốt và chồng cô đang thành tâm cầu nguyện trong nhà thờ gần đó, cô lao vào bóng đêm đi mua thuốc đắp cho cái trán nóng như lửa của đứa con. Khi đóng cửa, cô nó với con gái cả của mình.
“Đóng cửa thật chặt con nhé. Mẹ sẽ về sớm.”
Nhưng, Chúa ơi, lời nói của cô không thành hiện thực. Ngay sau đó cô gặp James Schneider.
Kẻ Tầm Xương nhìn quanh những con phố tồi tàn ở đây. Khu vực này – gần nơi hắn chôn nạn nhân đầu tiên – là Hell’s Kitchen, khu West Side của thành phố, nơi từng là pháo đài của các băng nhóm Ireland, ngày nay là nơi sinh sống của những chuyên gia trẻ tuổi, các công ty quảng cáo, studio chụp ảnh và những nhà hàng kiểu cách.
Hắn ngửi thấy mùi phân bón và không ngạc nhiên khi bống dưng nhìn thấy một con ngựa lồng lên trước mặt.
Sau đó hắn nhận thấy con vật đó không phải là ma quỷ từ những năm 1800 mà là con ngựa được thắng vào một chiếc xe ngựa hai bánh chạy trong Công viên Trung tâm với mức phí của thế kỷ XX. Chuồng ngựa của họ đặt ở đây.
Hắn cười với chính mình. Mặc dù đó là một âm thanh ghê rợn.
Người ta chỉ có thể suy đoán về những gì đã xảy ra, vì chẳng có một nhân chứng nào. Nhưng chúng ta có thể hình dung quá rõ ràng sự khủng khiếp. Tên tội phạm lôi người phụ nữ đang cố chống cự vào con đường nhỏ, đâm cô, ý định dã man của hắn ta là chưa giết ngay cô ta mà chỉ khuất phục cô, đó là thói quen của hắn. Nhưng với sức mạnh trong tâm hồn của người đàn bà lương thiện Goldschmidt, ý nghĩ mình chắc chắn sẽ phải trở về với những đứa con còn non nớt của cô đã làm con quái thú thật ngạc nhiên khi cô liên tục tấn công hắn; cô đấm liên tục vào mặt hắn, rứt tóc trên đầu hắn.
Ngay lập tức cô thoát được và từ miệng cô vang lên tiếng thét khủng khiếp. Schneider hèn nhát đánh cô thêm một, hai cú nữa rồi bỏ chạy.
Người phụ nữa dũng cảm lê bước tới vỉa hè rồi ngã xuống, và ở đó cô đã chết trên tay một viên cảnh sát được hàng xóm gọi đến.
Câu chuyện trên xuất hiện trong một cuốn sách lúc này đang nằm trong túi quần Kẻ Tầm Xương, Crime in Old New York[75]. Hắn không thể giải thích được sự hấp dẫn kinh khủng của cuốn sách mỏng này đối với hắn. Nếu phải miêu tả mối quan hệ của hắn với cuốn sách, hắn có thể nói hắn nghiện nó. Bảy mươi lăm tuổi và vẫn còn trong tình trạng rất tốt, một hòn ngọc của nghề đóng sách. Đó là bùa hộ mệnh và vật ban phước lành cho hắn. Hắn tìm thấy nó trong một nhánh nhỏ của thư viện công cộng và hắn đã thực hiện một trong những vụ ăn cắp hiếm hoi trong đời mình bằng cách tuồn nó vào túi áo mưa và chuồn ra khỏi tòa nhà.
Hắn đọc trong chương nói về Schneider hàng trăm lần và gần như đã thuộc lòng.
Lái xe thật từ từ. Họ đã gần đến nơi.
Khi người chồng tội nghiệp của Hanna khóc nức nở bên cơ thể không còn sức sống của cô, anh ta nhìn vào mặt cô: lần cuối trước khi người ta đưa cô đến nhà tang lễ (vì theo niềm tin của người Do Thái, người chết cần được chôn cất càng nhanh càng tốt). Và anh ta nhận thấy trên gò má trắng như sứ của cô có vết thâm tím mang hình một biểu tượng lạ lùng. Đấy là một biểu tượng hình tròn trông như trăng lưỡi liềm và một dấu vết trông giống như chòm sao lơ lửng phía trên.
Cảnh sát nói rằng đó là dấu hằn do chiếc nhẫn của tên đồ tể tàn ác để lại khi hắn đánh nạn nhân tội nghiệp. Các thám tử đã nhờ đến sự giúp đỡ của một nghệ sĩ và anh ta đã phác thảo một hình ảnh bản gốc (Bạn đọc hãy tham chiếu hình XXII). Người ta đã thẩm vấn một số thợ kim hoàn trong thành phố, thu thập tên tuổi và địa chỉ một số người đã mua chiếc nhẫn như thế trong khoảng thời gian đó. Hai trong số những quý ông đã mua chiếc nhẫn hoàn toàn nằm ngoài sự nghi ngờ, vì một người là mục sư nhà thờ và người kia là giáo sư nổi tiếng trong một trường đại học danh tiếng. Còn người thứ ba là một người đàn ông mà từ lâu cảnh sát đã nghi ngờ vì có những hoạt động bất chính. Đó chính là James Schneider.
Quý ông này đã từng có ảnh hưởng trong một số tổ chức từ thiện của Manhattan: đáng kể nhất là Hội Trợ giúp bệnh nhân lao phổi và Hội Phúc lợi xã hội cho người hưởng tiền trợ cấp. Ông ta rơi vào tầm ngắm của cảnh sát khi một vài người lớn tuổi trong các nhóm nói trên biến mất không lâu sau khi Schneider đến thăm họ. Ông ta chưa bao giờ bị kết tội tấn công, nhưng sau những lần điều tra, ông ta biến mất khỏi tầm ngắm.
Sau khi Hanna Goldschmidt bị giết một cách tàn bạo, có một cuộc truy tìm thầm lặng những bóng ma mơ hồ trong thành phố nhưng vẫn không tìm ra được nơi ở của Schneider. Cảnh sát cho dán thông báo khắp khu vực trung tâm và khu vực bờ sông, đưa ra mô tả hình dạng của tên tội phạm nhưng hắn không hề e sợ; một thảm kịch thực sự, chắc chắn như vậy, dưới ánh sáng của vụ thảm sát tàn khốc đã xảy đến với thành phố đang nằm trong bàn tay ghê tởm của hắn.
Đường phố trống trải. Kẻ Tầm Xương lái xe vào con phố nhỏ. Hắn mở cánh cửa kho và lái xe theo đoạn đường dốc bằng gỗ vào một đường hầm dài.
Sau khi chắc chắn nơi này không có ai, hắn đi ra sau xe. Hắn mở cốp và lôi Hanna ra. Cô ta đầy thịt, béo, như một cái bao vải mềm oặt. Hắn lại càng giận dữ và lôi cô ta xềnh xệch xuống một đường hầm rộng khác. Xe cộ từ phía đường cao tốc West Side chạy trên đầu họ. Hắn nghe tiếng cô ta khò khè và đã định giơ tay tháo miếng băng dán miệng thì hắn cảm thấy cô ta giật mình và hoàn toàn mềm nhũn. Thở hổn hển vì phải cố gắng kéo cô ta, hắn đặt cô ta xuống nền đường hầm và nới lỏng miếng băng dính dán trên miệng cô ta. Không khí yếu ớt nhỏ giọt vào trong. Cô ta có bị ngất không? Hắn lắng nghe tim cô ta. Hình như nó vẫn đập tốt.
Hắn cắt sợi dây phơi trói mắt cá chân cô ta, nghiêng về phía trước và thầm thì: “Hanna, kommen Sie mit mir mit[76]”, Hanna, Goldschmidt...”
“Nein”, cô ta lẩm bẩm, giọng cô ta nhỏ dần rồi im bặt.
Hắn cúi gần hơn, tát nhẹ vào mặt cô ta. “Hanna, cô phải đi cùng tôi.”
Và cô ta hét lên: “Mein name ist micht Hanna[77].” Rồi đánh trúng hàm hắn.
Một chùm ánh sáng vàng lóe lên trong đầu hắn và hắn nhảy sang bên cạnh tới hai, ba feet, cố giữ thăng bằng. Hanna bật dậy, chạy mò mẫm dọc theo hành lang tăm tối. Nhưng hắn chạy rất nhanh theo cô. Hắn bắt được cô khi cô chạy chưa được mười thước[78]. Cô ngã rất mạnh, hắn ngã theo, hổn hển vì đứt hơi.
Hắn nằm nghiêng khoảng một phút, bị cơn đau chiếm lĩnh, cố gắng thở, tóm áo cô ta vì cô ta giãy giụa. Nằm ngửa, tay vẫn bị còng, cô ta cố gắng sức sử dụng vũ khĩ duy nhất mình có – hai chân, cô ta nhấc chân đạp rất mạnh vào tay hắn. Một cơn đau nhói xuyên suốt người hắn và làm găng tay hắn tuột ra. Cô ta lại nhấc chân lên, hắn thoát được gọt giày của cô ta chỉ vì cô ta nhắm trượt; cú đạp xuống đất mạnh đến nỗi nếu trúng chắc chắn hắn sẽ gãy xương.
“So nicht![79]” Hắn gầm gừ điên dại, hai bàn tay trần túm lấy cổ họng cô ta, bóp mạnh cho tới khi cô ta quằn quại van xin, rồi không còn quằn quại van xin được nữa. Cô ta giật giật vài cái rồi bất động.
Khi hắn nghe tim cô ta thì tiếng đập đã rất yếu. Lần này là thật. Hắn nhặt chiếc găng tay, đeo vào và kéo cô qua đường hầm để chỗ cái cột trụ. Trói lại chân và dán miếng băng dính mới lên miệng cô. Khi cô tỉnh lại, bàn tay hắn lang thang trên cơ thể cô. Đầu tiên cô kinh ngạc sau đó co rúm lại khi hắn chăm chút phần thịt sau tai cô. Khuỷu tay cô, quai hàm cô. Trên người cô không có nhiều chỗ làm hắn thích động chạm. Cô ta như cái bị thịt... điều này làm hắn thấy ghê tởm.
Nhưng phía dưới lớp da... Hắn nắm chân cô thật chặt. Đôi mắt cô mở to nhìn hắn lần tìm trong túi lấy ra một lưỡi dao. Không một chút chần chừ, hắn luồn con dao xuyên qua da cô sâu, tới tận đoạn xương màu vàng trắng. Cô thét lên qua lớp băng dính, một tiếng khóc điên dại, đá thật mạnh nhưng chân đã bị trói chặt. Thích không, Hanna? Cô gái sụt sùi, rên la ầm ĩ. Vì thế hắn phải nghiêng tai xuống tận chân cô để nghe tiếng động ngọt ngào của mũi dao đưa đi đưa lại trên đoạn xường. Kí... t...
Rồi hắn cầm tay cô.
Ánh mắt họ chạm nhau trong giây lát cô thảm hại lắc đầu, âm thầm van xin. Ánh mắt hắn rơi xuống cánh tay mập mạp của cô, và nhát cắt tiếp theo cũng thật sâu.. Cả người cô cứng lại vì đau. Thêm một tiếng thét man dại, câm lặng nữa. Một lần nữa hắn cúi đầu như một nhạc sĩ, lắng nghe tiếng lưỡi dao cạo trên xương cánh tay. Tới, lui. Kít, kít... Một lúc sau hắn nhận ra cô đã bất tỉnh.
Cuối cùng hắn cũng dứt được mình ra và đi về phía chiếc xe. Hắn đặt những manh mối tiếp theo, sau đó lấy từ cốp xe một cây chổi và cẩn thận quét hết dấu chân của họ. Hắn lái xe lên đoạn đường dốc, đỗ lại, vẫn để động cơ chạy và đi xuống lần nữa, cận thận quét sạch dấu bánh xe.
Hắn dừng lại và nhìn xuống đường hầm. Nhìn cô ta, chỉ nhìn không thôi. Bất ngờ, một nụ cười thoáng hiện trên môi Kẻ Tầm Xương. Hắn ngạc nhiên nhận thấy những người khách đầu tiên đã xuất hiện. Một tá những cặp mắt nhỏ tí xíu đỏ ngầu, hai tá, rồi ba tá... Có vẻ chúng đang nhìn cơ thể đầy máu của Hanna với một chút tò mò... và có thể cả đói nữa. Mặc dù mới chỉ là hình dung của hắn; Chúa biết, những hình ảnh đó cũng đủ rõ ràng.
Anh ta phải có kiến thức về thực vật học, địa lý, đạn đạo học, y học, hóa học, văn học và nghề kỹ sư. Nếu anh ta hiểu thực tế – ví dụ như tàn tro có chứa nhiều stronti có thể phát tích từ các đám cháy trên đường cao tốc, rằng faca trong tiếng Bố Đào Nha có nghĩa là “con dao” và những người Ethiopia khi ăn tối không dùng dụng cụ ăn mà chỉ dùng tay phải, rằng viên đạn với vết xẻ nòng kiểu lốm đốm, xoay bên phải, không thể được bắn ra từ một khẩu súng ngắn Colt – nếu anh ta biết được những điều đó, anh ta có thể đưa ra những liên kết đặt nghi phạm vào hiện trường vụ án.
Một lĩnh vực mà tất cả các nhà hình sự học đều biết là giải phẫu. Và đó chắc chắn là chuyên môn của Lincoln Rhyme, vì anh đã giành ba năm rưỡi để tìm hiểu về logic quanh co của xương và dây thần kinh.
Lúc này anh đang nhìn túi vật chứng lấy được từ phòng nồi hơi mà Jerry Banks đang đung đưa trên tay và tuyên bố: “Xương chân. Không phải xương người. Vì thế không phải của nạn nhân tiếp sau.”
Đó là một vòng xương đường kính khoảng hai inch, bị cưa đều đặn. Trên những đường cưa do lưỡi cưa để lại vẫn còn vết máu.
“Một con thú cỡ vừa”, Rhyme tiếp tục. “Một con chó lớn, hay cừu, dê. Tôi đoán là cái xương này có thể đỡ khối lượng khoảng một trăm pound. Tuy vậy cứ thử để chắc chắn đó là máu động vật. Vì nó vẫn có thể là máu nạn nhân.”
Đã có những tên tội phạm dùng xương để đánh hay đâm chết nạn nhân. Bản thân Rhyme đã gặp ba trường hợp tương tự; vũ khí được dùng là xương đầu gối bò, một cái xương chân hươu và trong một trường hợp khó chịu lại chính là xương khuỷu tay của nạn nhân.
Mel Cooper thực hiện phép thử thẩm thấu gel để tìm nguồn gốc máu. “Chúng ta phải đợi một lúc mới có kết quả”, anh ta giải thích, vẻ có lỗi.
“Amelia”, Rhyme nói, “chắc cô giúp được chúng tôi. Hãy dùng kính lúp và xem xét thật kỹ cái xương. Nói xem cô thấy gì?”.
“Không phải kính hiển vi à?” Cô hỏi. Anh nghĩ cô sẽ phản đối nhưng cô lại đi tới chỗ cái xương, tò mò nhìn nó.
“Phóng đại nhiều quá”, Rhyme giải thích.
Cô đeo kính lên và cúi xuống cái khay tráng men màu trắng. Cooper bật cây đèn hình cổ ngỗng lên.
“Những vết cắt”, Rhyme nói. “Chúng mấp mô hay phẳng?”
“Chúng khá là phẳng.”
“Một cái cưa khỏe.”
Rhyme băn khoăn không biết con thú có còn sống khi hắn làm việc đó hay không.
“Cô thấy gì bất thường không?”
Cô nhìn chăm chăm một lúc vào cái xương, nói nhỏ: “Tôi không biết. Tôi không nghĩ thế. Nó trông chỉ giống như một khúc xương bình thường.”
Chính lúc đó Thom đi ngang qua và nhìn vào cái khay. “Đó là dấu vết của các vị à? Buồn cười thật.”
“Buồn cười”, Rhyme nói. “Buồn cười?”
Sellitto hỏi: “Anh có ý kiến gì chăng?”
“Chẳng có ý kiến gì.” Anh ta cúi xuống ngửi khúc xương. “Đây là osso bucco.”
“Cái gì?”
“Chân bê. Tôi đã nấu món này cho anh một lần rồi, Lincoln. Món osso bucco. Món chân bê om.” Anh ta nhìn Sachs và nhăn mặt. “Anh ta chê nó nhạt.”
“Mẹ kiếp.” Sellitto kêu to. “Hắn mua cái này ở cửa hàng thực phẩm!”
“Nếu ta may mắn thì...”, Rhyme nói, “hắn mua nó ở cửa hàng thực phẩm của hắn”.
Cooper khẳng định phép thử kết tủa cho thấy âm tính với máu người trên mẫu được Sachs đem về. “Có thể đó là máu bò”, anh ta nói.
“Nhưng hắn định nói gì với chúng ta nhỉ?” Banks hỏi.
Rhyme không biết. “Hãy tiếp tục đi. À, có gì trên khóa móc và xích không?”
Cooper nhìn vật nằm trong cái túi nhựa giòn. “Giờ không còn ai khắc tên nhãn hiệu lên xích nữa. Như vậy ở đây ta không may mắn rồi. Cái khóa này là loại hàng trung bình của Secure-Pro. Nó không an toàn lắm và chắc chắn không phải loại chuyên nghiệp. Phải mất bao lâu để phá nó?”
“Mất ba giây”, Sellitto nói.
“Thấy chưa. Không có số thứ tự. Người ta bán nó ở tất cả các cửa hàng kim khí trên cả nước.”
“Khóa chìa hay khóa số?” Rhyme hỏi.
“Khóa số.”
“Gọi cho nhà sản xuất. Hỏi họ xem nếu ta tháo tung nó ra rồi khôi phục lại tổ hợp số từ lẫy khóa, điều đó có cho ta biết được nó nằm trong đợt hàng nào và đi đến đâu không?”
Banks huýt sáo. “Ôi giời, xa quá.”
Cái nhìn của Rhyme làm mặt anh chàng đỏ lựng. “Sự nhiệt tình trong giọng nói của anh cho thấy, thưa thám tử, anh đúng là người phù hợp để làm việc đó.”
“Vâng, thưa ngài.” Chàng trai trẻ tuổi nhấc điện thoại di động. “Tôi làm đây.”
Rhyme hỏi: “Có vết máu trên xích không?”
Sellitto nói: “Của một trong những người của ta. Anh ta tự làm mình bị thương khá nặng lúc phá khóa.”
“Như vậy là nó đã bị ô nhiễm.” Rhyme cau có.
“Anh ta cố cứu cô ấy thôi”, Sachs nói với Rhyme.
“Tôi hiểu. Anh ta rất tốt bụng. Nhưng nó vẫn bị ô nhiễm rồi.” Rhyme nhìn lại về phía cái bàn cạnh Cooper. “Dấu tay?”
Cooper nói anh ta đã kiểm tra và chỉ thấy mỗi dấu vân tay của Sellitto trên dây xích.
“Được rồi, mẩu gỗ Amelia tìm được. Kiểm tra dấu tay xem.”
“Tôi làm rồi”, Sachs nói nhanh. “Tại hiện trường.”
P.D., Rhyme nhớ lại. Cô nàng không có vẻ giống như biệt hiệu. Những người đẹp ít khi thế.
“Hãy thử vũ khí hạng nặng xem, để cho chắc chắn”, Rhyme nói và ra lệnh cho Cooper. “Dùng DFO hoặc ninhydrin. Sau đó chiếu nit-yag.”
“Cái gì?” Banks hỏi.
“Tia laser neodymium:yttrium aluminum garnet.”
Kỹ thuật viên làm mẩu gỗ sủi bọt bằng một thứ chát lỏng từ lọ xịt nhựa và chiếu tia laser lên đó. Anh ta đeo kính và xem xét nó một cách cẩn trọng. “Không có gì.”
Anh ta tắt đèn và xem xét cẩn thận miếng gỗ. Nó là một miếng gỗ dài khoảng sáu inch, màu tối. Trên đó có một vết bẩn, giống như nhựa đường và bị dính đầy bụi. Anh ta cầm nó bằng một cái kẹp.
“Tôi biết Lincoln thích dùng đũa”, Cooper nói. “Nhưng khi đến Ming Wa[72] tôi luôn gọi dĩa.”
“Anh có thể làm vỡ tế bào”, nhà hình sự học càu nhàu.
“Tôi có thể. Nhưng tôi không làm vỡ”, Cooper đáp lời.
“Loại gỗ gì?” Rhyme băn khoăn. “Có cần chạy máy phân tích tàn tro không?”
“Không cần, đó là gỗ sồi. Chắc chắn thế.”
“Có dấu cưa hay bào gì không?” Rhyme vươn người ra trước. Bất ngờ cổ anh bị co thắt, không thể chịu đựng nổi những cơn đau cơ vì chuột rút. Anh hổn hển, nhắm mắt và xoay cổ, cố gắng kéo dãn cơ. Anh cảm thấy bàn tay mạnh mẽ của Thom xoa bóp vùng cổ. Cuối cùng thì cơn đau cũng bớt.
“Lincoln?” Sellitto hỏi. “Anh ổn chứ?”
Rhyme thở sâu: “Tốt rồi. Không có gì đâu.”
“Đây này.” Cooper đem khúc gỗ lại phía giường, đeo kính phóng đại lên mắt cho Rhyme.
Rhyme kiểm tra mẫu vật. “Bị cắt theo hướng của thớ gỗ bằng cưa khung. Vết cắt rất không đều. Vì thế tôi đoán đây là một cây cột hay xà nhà được xẻ hơn một trăm năm trước. Có lẽ là cưa hơi nước. Đưa nó lại gần hơn một chút đi, Mel. Tôi muốn ngửi nó.”
Anh ta để mẩu gỗ dưới mũi Rhyme.
“Có tẩm creozot – dung dịch than-nhựa đường. Dùng để bảo vệ gỗ trước khi các công ty xẻ gỗ xử lý áp suất. Làm cầu tàu, ụ tàu, tà vẹt…”
“Có thể lại có kẻ hâm mộ đường sắt”, Sellitto nói. “Hãy nhớ đến đường ray sáng nay.”
“Có thể”, Rhyme ra lệnh. “Kiểm tra ép tế bào đi, Mel.”
Anh ta dùng kính hiển vi xem xét mẩu gỗ. “Nó được ép rất tốt. Nhưng ép dọc theo thớ. Không phải ngược lại. Không phải tà vẹt. Đấy là cột chống hay cọc đỡ. Mang trọng lượng…”
Một khúc xương… một cái cột gỗ cũ…
“Tôi thấy trong gỗ có bụi. Điều đó có nói với chúng ta thứ gì không?”
Cooper trải một tờ báo lớn lên bàn, xé bìa đi. Anh ta cầm mẩu gỗ trên tờ báo và chải một ít bụi từ khe nứt trên mẩu gỗ. Anh ta xem xét những chấm nhỏ trên tờ giấy trắng – một chòm sao ngược.
“Anh có đủ để thử biến thiên mật độ không?” Rhyme hỏi.
Trong phép thử biến nhiệt mật độ, bụi được đổ vào một cái ống chứa những chất lỏng có trọng lượng riêng xác định, khác nhau. Đất sẽ phân rã ra và mỗi hạt sẽ lơ lửng ở lớp chất lỏng có trọng lượng riêng tương ứng. Rhyme đã thiết lập một thư viện rất đầy đủ hồ sơ biến thiên mật độ của đất từ cả năm khu. Không may là phép thử này chỉ có tác dụng khi ta có đủ một lượng đất nhất định; Cooper không nghĩ rằng họ có đủ đất. “Ta có thể sử nhưng sẽ phải dùng tất cả mẫu. Và nếu nó không có tác dụng, ta chẳng còn gì cho các phép thử khác.”
Rhyme bảo anh ta xem xét bằng mắt thường trước rồi phân tích nó trên GC-MS.
Tay kỹ thuật viên chải một ít đất vào bàn trượt. Anh ta nhìn nó vài phút qua kính hiển vi. “Lạ thật, Lincoln. Đó là đất bề mặt. Với mức độ thực vật cao bất thường. Nhưng dưới dạng rất lạ. Bị thối rữa và phân hủy rất nặng.” Anh ta ngẩng lên và Rhyme nhận thấy những vệt màu đen phía dưới mắt anh ta vì tỳ vào ống ngắm. Anh nhớ rằng sau nhiều giờ làm việc trong phòng thí nghiệm, những vệt đen này nổi lên khá rõ và một kỹ thuật viên giám định thường ra khỏi phòng thí nghiệm ở IRD để được chào đón với dàn hợp xướng Rocky Raccoon[73].
“Đốt nó lên”, Rhyme ra lệnh.
Cooper đặt một mẫu vào thiết bị GC-MS. Cái máy rùng rùng sống dậy và phát ra tiếng xì xì. “Đợi một, hai phút.”
“Trong khi ta chờ”, Rhyme nói, “cái xương… tôi vẫn băn khoăn về cái xương. Soi nó bằng kính hiển vi xem nào, Mel”.
Copper cẩn thận đặt khúc xương vào dưới kính hiển vi. Anh ta nghiên cứu nó rất kỹ càng. “Ồ, có thứ gì đây này.”
“Cái gì?”
“Rất nhỏ. Trong suốt. Đưa cho tôi cái kẹp cầm máu”, Cooper nói với Sachs, hất đầu về phía một cái kẹp bấm. Cô đưa nó cho anh ta và anh ta cẩn trọng tìm kiếm trong phần tủy của khúc xương. Anh ta nhặt thứ gì đó lên.
“Một mẫu cellulose tái chế”, Cooper tuyên bố.
“Là giấy bóng kính”, Rhyme nói. “Cho tôi biết thêm đi.”
“Có dấu bị kéo và giật. Tôi có thể nói hắn ta không cố tình để nó lại; không có cạnh nào bị cắt. Nó không mâu thuẫn với giấy bóng kính bền”, Cooper nói.
“Không mâu thuẫn.” Rhyme cau có. “Tôi không thích kiểu phòng vệ của hắn.”
“Chúng ta phải phòng vệ, Rhyme.” Cooper tươi tỉnh nói.
“Liên quan đến. Khuyến nghị. Tôi đặc biệt ghét không mâu thuẫn.”
“Rất nhiều khả năng”, Cooper nói. “Khả năng gần nhất của tôi là giấy bóng kính ở cửa hàng thịt hay cửa hàng thực phẩm. Không phải Saran Wrap. Chắc chắn không phải giấy gói của một thương hiệu vô danh.”
Jerry Banks từ hàng lang đi vào phòng. “Tin xấu. Công ty Secure-Pro không giữ hồ sơ nào về các tổ hợp mã khóa. Máy móc thiết lập ra chúng ngẫu nhiên.”
“À.”
“Nhưng điều thú vị là họ nói họ thường xuyên nhận được các cuộc gọi của cảnh sát về sản phẩm của họ và anh là người đầu tiên nghĩ tới việc truy tìm ổ khóa qua tổ hợp mã.”
“Có thể thú vị đến đâu nếu như đó là ngõ cụt?” Rhyme càu nhàu và quay về phía Mel Cooper, anh ta đang lắc đầu khi nhìn vào máy tính của GC-MS. “Gì thế?”
“Có kết quả phân tích đất rồi. Nhưng tôi sợ là máy có thể phải sửa. Quá nhiều nitrogen. Ta phải thử lại lần nữa, chắc lần này phải dùng nhiều mẫu hơn.”
Rhyme bảo anh ta làm. Ánh mắt anh quay lại phía khúc xương. “Mel, con vật bị giết lâu chưa?”
Mel xem xét vài mảnh nhỏ dưới kính hiển vi điện tử.
“Có rất ít các nhóm vi khuẩn. Cậu Bambi này chắc mới bị thịt, có lẽ thế. Hay mới được lấy ra khỏi tủ lạnh khoảng tám tiếng.”
“Như thế là hắn mới mua nó”, Rhyme nói.
“Hoặc tháng trước và làm đông lạnh nó”, Sellitto đề xuất.
“Không”, Cooper nói. “Nó không bị đông lạnh. Không có vết biểu bì bị tinh thể băng phá hoại. Và nó không ở trong tủ lạnh quá lâu. Không bị khô; tủ lạnh hiện đại làm thức ăn bị khô.”
“Dấu vết tốt đấy”, Rhyme nói. “Hãy điều tra thêm một chút đi.”
“Điều tra thêm?” Sachs cười. “Ý anh nói là chúng ta sẽ gọi điện cho tất cả các cửa hàng thực phẩm trong thành phố để hỏi ngày hôm qua có ai bán xương bê không à?”
“Không”, Rhyme nói. “Mà là trong hai ngày qua.”
“Anh có cần gọi Những Chàng trai Dũng cảm không?”
“Cứ để họ làm việc của họ. Gọi Emma, ở trung tâm, xem cô ấy còn làm việc không? Và nếu không, gọi cô ấy quay lại văn phòng cùng với những điều phối viên khác để họ làm ngoài giờ. Đưa cho cô ấy danh sách tất cả các cửa hàng thực phẩm trong thành phố. Tôi cá là anh chàng của chúng ta không mua thực phẩm cho gia đình bốn người, vì thế nói với Emma giới hạn danh sách xuống những người chỉ mua dưới năm thứ.”
“Lệnh bắt?” Banks hỏi.
“Hễ có ai đó giật mình, ta sẽ có lệnh bắt”, Sellitto nói. “Nhưng cứ thử không có lệnh trước. Ai biết được? Vài công dân có thể thực sự cộng tác. Người ta nói với tôi là, đôi khi điều đó có xảy ra.”
“Nhưng làm sao các cửa hàng biết được ai đã mua chân bê?” Sachs hỏi. Cô không còn lơ đãng như trước. Trong giọng nói của cô đã có chút góc cạnh. Rhyme tự hỏi liệu sự khó chịu của cô có phải là triệu chứng của điều mà chính anh đôi khi cũng tự cảm thấy – gánh nặng của bằng chứng. Vấn đề cốt yếu với các nhà hình sự học không phải là có quá ít bằng chứng mà là quá nhiều.
“Kiểm tra máy quét”, Rhyme nói. “Họ đăng ký giao dịch bán hàng trên máy tính. Để kiểm kê và mua thêm hàng. Banks, nói đi. Tôi thấy hình như có điều gì đó trong đầu cậu? Nói ra đi. Lần này tôi không đẩy cậu đi Siberia nữa đâu.”
“Thôi được, chỉ có các cửa hàng nằm trong cùng một chuỗi mới có máy quét, thưa ngài”, viên thám tử trẻ tuổi nói. “Có hàng trăm cửa hàng riêng lẻ và hàng thịt không có máy quét.”
“Ý hay. Nhưng tôi nghĩ hắn sẽ không đến một cửa hàng nhỏ. Hắn sẽ mua ở những cửa hàng lớn. Phi cá nhân.”
Sellitto gọi điện cho Phòng Truyền thông và nói với Emma những gì họ cần làm.
“Hãy chụp phân cực mẩu giấy bóng kính này xem”, Rhyme nói với Cooper.
Người kỹ thuật viên đặt mẫu nhỏ này vào kính phân cực, sau đó đặt máy ảnh Polaroid vào ống ngắm và chụp ảnh. Đó là một tấm ảnh màu, một chiếc cầu vồng với một vạch sáng màu xuyên qua. Rhyme nghiên cứu tấm ảnh. Hình mẫu đó chẳng nói lên điều gì với họ, nhưng có thể so sánh nó với các mẫu giấy bóng kính khác để xem chúng có cùng một nguồn gốc hay không.
Rhyme nảy ra một ý nghĩ. “Lon gọi vài sỹ quan ESU đến đây. Khẩn trương.”
“Tới đây?” Sellitto hỏi.
“Chúng ta sẽ chuẩn bị một chiến dịch.”
“Anh chắc chứ?” Viên thám tử hỏi.
“Đúng thế! Tôi cần họ ngay.”
“Được rồi.” Anh ta gật đầu với Banks, người gọi điện cho Haumann.
“Còn bây giờ những dấu vết để lại khác thì sao – mấy sợi lông mà Amelia tìm thấy.”
Cooper đào bới chúng bằng cái que thăm sau đó đưa vài sợi lên kính hiển vi đối pha. Công cụ này chiếu hai nguồn ánh sáng vào một đối tượng, luồng ánh sáng thứ hai được chiếu muộn hơn một chút – lệch pha – sao cho mẫu vừa được chiếu sáng, vừa có bóng tối.
“Không phải của người”, Cooper nói. “Tôi có thể nói ngay với anh như vậy. Hơn nữa đây là lông bảo vệ, không phải lông phía dưới.”
Ý anh ta là nó từ bộ lông của động vật.
“Con gì? Chó?”
“Con bê?” Banks đề xuất, một lần nữa đầy sự nhiệt tình và trẻ trung.
“Kiểm tra vảy”, Rhyme ra lệnh. Ý anh là những vảy nhỏ tạo thành lớp vỏ ngoài sợi lông.
Cooper gõ bàn phím máy tính và mấy giây sau hình ảnh những cái que nhỏ đầy vảy hiện ra trên màn hình. “Nhờ anh đấy, Lincoln. Nhớ cơ sở dữ liệu không?”
Ở IRD, Rhyme đã tập hợp một bộ sưu tập khổng lồ những bức vi ảnh các loại lông khác nhau. “Nhớ chứ, Mel. Nhưng lần cuối cùng tôi nhìn thấy chúng là trong cặp hồ sơ cơ mà, làm thế nào mà anh cho chúng vào máy tính được?”
“Tất nhiên là nhờ scan rồi. Nén dưới dạng JPEG.”
Jay-peg? Cái quái gì thế nhỉ? Chỉ trong vài năm công nghệ đã vượt qua Rhyme. Thật lạ lùng...
Khi Cooper xem xét các bức ảnh, Lincoln Rhyme lại băn khoăn về điều anh đã băn khoăn cả ngày – câu hỏi cứ hiện lên: Vì sao lại có những dấu vết? Con người thật tuyệt vời nhưng trên hết đó chỉ là – một con thú. Một con thú biết cười, nguy hiểm, thông minh và hoảng sợ nhưng luôn luôn hành động có lý do – một động cơ đẩy con thú đến với dục vọng của nó. Nhà khoa học Lincoln Rhyme không tin vào sự tình cờ, hay sự ngẫu nhiên, hay thiếu chứng cứ. Ngay cả kẻ điên cũng có logic của họ, bất kể nó có rối rắm đến đâu, và anh biết phải có lý do gì đó để Đối tượng 823 nói chuyện với họ bằng cách thức khó hiểu như vậy.
Cooper gọi: “Có rồi. Loài gặm nhấm. Có thể là chuột. Hơn nữa lông bị cạo.”
“Dấu vết kiểu gì vậy?” Banks nói. “Có hàng triệu con chuột trong thành phố. Nó không dẫn tới chỗ nào cả. Hắn định nói gì với chúng ta vậy?”
Sellitto nhắm mắt một khắc và lẩm bẩm điều gì đó trong hơi thở. Sachs không nhận thấy cái gì đó. Cô đang tò mò liếc nhìn Rhyme. Anh ta ngạc nhiên là cô không nhận ra thông điệp của kẻ bắt cóc là gì nhưng anh ta không nói gì. Anh thấy không có lý do gì phải chia sẻ phần kiến thức kinh hoàng đó với bất kỳ ai vào lúc này.
Nạn nhân thứ bảy của James Schneider, hoặc thứ tám, nếu hắn nhớ không nhầm, trong số đó có thiên thần nhỏ bé O’Connor, là vợ của một người nhập cư cần cù, người đã xây một căn nhà giản dị gần Phố Hester, bên khu Lower East Side của thành phố.
Chính nhờ sự dũng cảm của người phụ nữ không may mắn này mà cảnh sát phát hiện ra nhân dạng của tên tội phạm. Hanna Goldschmidt có dòng máu Đức – Do Thái và được kính trọng trong một cộng đồng gần gũi ở đó cô, chồng cô và sáu đứa con nhỏ của họ (một đứa đã mất khi sinh) sinh sống.
Kẻ Tầm Xương chậm rãi lái xe qua những con phố, cẩn thận tuân theo biển hạn chế tốc độ dù hắn biết chắc chắn rằng cảnh sát giao thông New York không chặn ai lại vì một lý do nhỏ như lái xe vượt quá tốc độ.
Hắn dừng lại ở đèn hiệu giao thông và nhìn lên một tấm bảng dán thông cáo của Liên Hợp Quốc khác. Mắt hắn nhìn thấy những khuôn mặt tươi cười, nhạt nhẽo – như những khuôn mặt ghê sợ được vẽ trên tường của khu nhà lớn – rồi nhìn ra xa, thành phố quanh hắn. Đôi khi hắn thấy ngạc nhiên khi nhìn lên và thấy những tòa nhà thật to lớn, những mái đua bằng đá thật cao, kính thật phẳng, những chiếc xe thật đẹp và con người thật tầm thường. Thành phố mà hắn biết tăm tối, thấp tịt, khói mù, bốc mùi mồ hôi và bùn đất. Ngựa có thể giẫm lên người ta, những băng nhóm lưu manh có ở khắp nơi – một số tên chỉ mới mười hay mười một tuổi – có thể đập đầu ta bằng gậy rồi bỏ đi với đồng hồ và ví tiền của ta... đó chính là thành phố của Kẻ Tầm Xương.
Đôi khi hắn thấy mình trong tình trạng này – lái chiếc xe Taurus XL màu bạc thật bảnh của mình trên con đường nhựa êm ái nghe đài WNYC[74] và thấy khó chịu, như tất cả người New York khác, khi hụt đèn xanh, băn khoăn vì cái lý do quái gì mà thành phố không cho ta rẽ phải khi có đèn đỏ.
Hắn nghiêng đầu và nghe mấy tiếng đập vọng ra từ cốp xe. Nhưng tiếng ồn bên ngoài lớn tới nức không ai có thể nghe thấy sự chống cự của Hanna.
Đèn xanh.
Tất nhiên đó là một sự kiện đặc biệt ngay cả trong thời kỳ đã thoát khỏi những thành kiến, phụ nữ được phiêu lưu trên phố vào buổi tối, không có quý ông đi kèm; và ngày nay thì điều này còn đặc biệt hơn nữa. Nhưng vào cái đêm không may mắn ấy, Hanna không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt buộc phải rời nơi ở của mình trong chốc lát. Đứa con út của cô bị sốt và chồng cô đang thành tâm cầu nguyện trong nhà thờ gần đó, cô lao vào bóng đêm đi mua thuốc đắp cho cái trán nóng như lửa của đứa con. Khi đóng cửa, cô nó với con gái cả của mình.
“Đóng cửa thật chặt con nhé. Mẹ sẽ về sớm.”
Nhưng, Chúa ơi, lời nói của cô không thành hiện thực. Ngay sau đó cô gặp James Schneider.
Kẻ Tầm Xương nhìn quanh những con phố tồi tàn ở đây. Khu vực này – gần nơi hắn chôn nạn nhân đầu tiên – là Hell’s Kitchen, khu West Side của thành phố, nơi từng là pháo đài của các băng nhóm Ireland, ngày nay là nơi sinh sống của những chuyên gia trẻ tuổi, các công ty quảng cáo, studio chụp ảnh và những nhà hàng kiểu cách.
Hắn ngửi thấy mùi phân bón và không ngạc nhiên khi bống dưng nhìn thấy một con ngựa lồng lên trước mặt.
Sau đó hắn nhận thấy con vật đó không phải là ma quỷ từ những năm 1800 mà là con ngựa được thắng vào một chiếc xe ngựa hai bánh chạy trong Công viên Trung tâm với mức phí của thế kỷ XX. Chuồng ngựa của họ đặt ở đây.
Hắn cười với chính mình. Mặc dù đó là một âm thanh ghê rợn.
Người ta chỉ có thể suy đoán về những gì đã xảy ra, vì chẳng có một nhân chứng nào. Nhưng chúng ta có thể hình dung quá rõ ràng sự khủng khiếp. Tên tội phạm lôi người phụ nữ đang cố chống cự vào con đường nhỏ, đâm cô, ý định dã man của hắn ta là chưa giết ngay cô ta mà chỉ khuất phục cô, đó là thói quen của hắn. Nhưng với sức mạnh trong tâm hồn của người đàn bà lương thiện Goldschmidt, ý nghĩ mình chắc chắn sẽ phải trở về với những đứa con còn non nớt của cô đã làm con quái thú thật ngạc nhiên khi cô liên tục tấn công hắn; cô đấm liên tục vào mặt hắn, rứt tóc trên đầu hắn.
Ngay lập tức cô thoát được và từ miệng cô vang lên tiếng thét khủng khiếp. Schneider hèn nhát đánh cô thêm một, hai cú nữa rồi bỏ chạy.
Người phụ nữa dũng cảm lê bước tới vỉa hè rồi ngã xuống, và ở đó cô đã chết trên tay một viên cảnh sát được hàng xóm gọi đến.
Câu chuyện trên xuất hiện trong một cuốn sách lúc này đang nằm trong túi quần Kẻ Tầm Xương, Crime in Old New York[75]. Hắn không thể giải thích được sự hấp dẫn kinh khủng của cuốn sách mỏng này đối với hắn. Nếu phải miêu tả mối quan hệ của hắn với cuốn sách, hắn có thể nói hắn nghiện nó. Bảy mươi lăm tuổi và vẫn còn trong tình trạng rất tốt, một hòn ngọc của nghề đóng sách. Đó là bùa hộ mệnh và vật ban phước lành cho hắn. Hắn tìm thấy nó trong một nhánh nhỏ của thư viện công cộng và hắn đã thực hiện một trong những vụ ăn cắp hiếm hoi trong đời mình bằng cách tuồn nó vào túi áo mưa và chuồn ra khỏi tòa nhà.
Hắn đọc trong chương nói về Schneider hàng trăm lần và gần như đã thuộc lòng.
Lái xe thật từ từ. Họ đã gần đến nơi.
Khi người chồng tội nghiệp của Hanna khóc nức nở bên cơ thể không còn sức sống của cô, anh ta nhìn vào mặt cô: lần cuối trước khi người ta đưa cô đến nhà tang lễ (vì theo niềm tin của người Do Thái, người chết cần được chôn cất càng nhanh càng tốt). Và anh ta nhận thấy trên gò má trắng như sứ của cô có vết thâm tím mang hình một biểu tượng lạ lùng. Đấy là một biểu tượng hình tròn trông như trăng lưỡi liềm và một dấu vết trông giống như chòm sao lơ lửng phía trên.
Cảnh sát nói rằng đó là dấu hằn do chiếc nhẫn của tên đồ tể tàn ác để lại khi hắn đánh nạn nhân tội nghiệp. Các thám tử đã nhờ đến sự giúp đỡ của một nghệ sĩ và anh ta đã phác thảo một hình ảnh bản gốc (Bạn đọc hãy tham chiếu hình XXII). Người ta đã thẩm vấn một số thợ kim hoàn trong thành phố, thu thập tên tuổi và địa chỉ một số người đã mua chiếc nhẫn như thế trong khoảng thời gian đó. Hai trong số những quý ông đã mua chiếc nhẫn hoàn toàn nằm ngoài sự nghi ngờ, vì một người là mục sư nhà thờ và người kia là giáo sư nổi tiếng trong một trường đại học danh tiếng. Còn người thứ ba là một người đàn ông mà từ lâu cảnh sát đã nghi ngờ vì có những hoạt động bất chính. Đó chính là James Schneider.
Quý ông này đã từng có ảnh hưởng trong một số tổ chức từ thiện của Manhattan: đáng kể nhất là Hội Trợ giúp bệnh nhân lao phổi và Hội Phúc lợi xã hội cho người hưởng tiền trợ cấp. Ông ta rơi vào tầm ngắm của cảnh sát khi một vài người lớn tuổi trong các nhóm nói trên biến mất không lâu sau khi Schneider đến thăm họ. Ông ta chưa bao giờ bị kết tội tấn công, nhưng sau những lần điều tra, ông ta biến mất khỏi tầm ngắm.
Sau khi Hanna Goldschmidt bị giết một cách tàn bạo, có một cuộc truy tìm thầm lặng những bóng ma mơ hồ trong thành phố nhưng vẫn không tìm ra được nơi ở của Schneider. Cảnh sát cho dán thông báo khắp khu vực trung tâm và khu vực bờ sông, đưa ra mô tả hình dạng của tên tội phạm nhưng hắn không hề e sợ; một thảm kịch thực sự, chắc chắn như vậy, dưới ánh sáng của vụ thảm sát tàn khốc đã xảy đến với thành phố đang nằm trong bàn tay ghê tởm của hắn.
Đường phố trống trải. Kẻ Tầm Xương lái xe vào con phố nhỏ. Hắn mở cánh cửa kho và lái xe theo đoạn đường dốc bằng gỗ vào một đường hầm dài.
Sau khi chắc chắn nơi này không có ai, hắn đi ra sau xe. Hắn mở cốp và lôi Hanna ra. Cô ta đầy thịt, béo, như một cái bao vải mềm oặt. Hắn lại càng giận dữ và lôi cô ta xềnh xệch xuống một đường hầm rộng khác. Xe cộ từ phía đường cao tốc West Side chạy trên đầu họ. Hắn nghe tiếng cô ta khò khè và đã định giơ tay tháo miếng băng dán miệng thì hắn cảm thấy cô ta giật mình và hoàn toàn mềm nhũn. Thở hổn hển vì phải cố gắng kéo cô ta, hắn đặt cô ta xuống nền đường hầm và nới lỏng miếng băng dính dán trên miệng cô ta. Không khí yếu ớt nhỏ giọt vào trong. Cô ta có bị ngất không? Hắn lắng nghe tim cô ta. Hình như nó vẫn đập tốt.
Hắn cắt sợi dây phơi trói mắt cá chân cô ta, nghiêng về phía trước và thầm thì: “Hanna, kommen Sie mit mir mit[76]”, Hanna, Goldschmidt...”
“Nein”, cô ta lẩm bẩm, giọng cô ta nhỏ dần rồi im bặt.
Hắn cúi gần hơn, tát nhẹ vào mặt cô ta. “Hanna, cô phải đi cùng tôi.”
Và cô ta hét lên: “Mein name ist micht Hanna[77].” Rồi đánh trúng hàm hắn.
Một chùm ánh sáng vàng lóe lên trong đầu hắn và hắn nhảy sang bên cạnh tới hai, ba feet, cố giữ thăng bằng. Hanna bật dậy, chạy mò mẫm dọc theo hành lang tăm tối. Nhưng hắn chạy rất nhanh theo cô. Hắn bắt được cô khi cô chạy chưa được mười thước[78]. Cô ngã rất mạnh, hắn ngã theo, hổn hển vì đứt hơi.
Hắn nằm nghiêng khoảng một phút, bị cơn đau chiếm lĩnh, cố gắng thở, tóm áo cô ta vì cô ta giãy giụa. Nằm ngửa, tay vẫn bị còng, cô ta cố gắng sức sử dụng vũ khĩ duy nhất mình có – hai chân, cô ta nhấc chân đạp rất mạnh vào tay hắn. Một cơn đau nhói xuyên suốt người hắn và làm găng tay hắn tuột ra. Cô ta lại nhấc chân lên, hắn thoát được gọt giày của cô ta chỉ vì cô ta nhắm trượt; cú đạp xuống đất mạnh đến nỗi nếu trúng chắc chắn hắn sẽ gãy xương.
“So nicht![79]” Hắn gầm gừ điên dại, hai bàn tay trần túm lấy cổ họng cô ta, bóp mạnh cho tới khi cô ta quằn quại van xin, rồi không còn quằn quại van xin được nữa. Cô ta giật giật vài cái rồi bất động.
Khi hắn nghe tim cô ta thì tiếng đập đã rất yếu. Lần này là thật. Hắn nhặt chiếc găng tay, đeo vào và kéo cô qua đường hầm để chỗ cái cột trụ. Trói lại chân và dán miếng băng dính mới lên miệng cô. Khi cô tỉnh lại, bàn tay hắn lang thang trên cơ thể cô. Đầu tiên cô kinh ngạc sau đó co rúm lại khi hắn chăm chút phần thịt sau tai cô. Khuỷu tay cô, quai hàm cô. Trên người cô không có nhiều chỗ làm hắn thích động chạm. Cô ta như cái bị thịt... điều này làm hắn thấy ghê tởm.
Nhưng phía dưới lớp da... Hắn nắm chân cô thật chặt. Đôi mắt cô mở to nhìn hắn lần tìm trong túi lấy ra một lưỡi dao. Không một chút chần chừ, hắn luồn con dao xuyên qua da cô sâu, tới tận đoạn xương màu vàng trắng. Cô thét lên qua lớp băng dính, một tiếng khóc điên dại, đá thật mạnh nhưng chân đã bị trói chặt. Thích không, Hanna? Cô gái sụt sùi, rên la ầm ĩ. Vì thế hắn phải nghiêng tai xuống tận chân cô để nghe tiếng động ngọt ngào của mũi dao đưa đi đưa lại trên đoạn xường. Kí... t...
Rồi hắn cầm tay cô.
Ánh mắt họ chạm nhau trong giây lát cô thảm hại lắc đầu, âm thầm van xin. Ánh mắt hắn rơi xuống cánh tay mập mạp của cô, và nhát cắt tiếp theo cũng thật sâu.. Cả người cô cứng lại vì đau. Thêm một tiếng thét man dại, câm lặng nữa. Một lần nữa hắn cúi đầu như một nhạc sĩ, lắng nghe tiếng lưỡi dao cạo trên xương cánh tay. Tới, lui. Kít, kít... Một lúc sau hắn nhận ra cô đã bất tỉnh.
Cuối cùng hắn cũng dứt được mình ra và đi về phía chiếc xe. Hắn đặt những manh mối tiếp theo, sau đó lấy từ cốp xe một cây chổi và cẩn thận quét hết dấu chân của họ. Hắn lái xe lên đoạn đường dốc, đỗ lại, vẫn để động cơ chạy và đi xuống lần nữa, cận thận quét sạch dấu bánh xe.
Hắn dừng lại và nhìn xuống đường hầm. Nhìn cô ta, chỉ nhìn không thôi. Bất ngờ, một nụ cười thoáng hiện trên môi Kẻ Tầm Xương. Hắn ngạc nhiên nhận thấy những người khách đầu tiên đã xuất hiện. Một tá những cặp mắt nhỏ tí xíu đỏ ngầu, hai tá, rồi ba tá... Có vẻ chúng đang nhìn cơ thể đầy máu của Hanna với một chút tò mò... và có thể cả đói nữa. Mặc dù mới chỉ là hình dung của hắn; Chúa biết, những hình ảnh đó cũng đủ rõ ràng.